My schedule

- Một tách cafe sớm
- Đọc báo
- Lướt web
- Đọc truyện

Tuesday, April 29, 2008

Nỗi nhớ Bayon - Dương Thụy

Xe dừng lại Trảng Bàng cho mọi người ăn sáng. Giờ anh hướng dẫn mới có dịp giới thiệu các thành viên trong đoàn với nhau: hai cặp mới cưới đi hưởng tuần trăng mật, một Việt kiều Thụy Sĩ chừng ba mươi lăm tuổi tên Lam, một Việt kiều Đức đã nghỉ hưu và Thế Sao.

- Tên em nghe hay như một câu hỏi không cần lời đáp – Lam lên tiếng làm quen – Thế Sao?
- Còn tên anh gợi nhớ quê xa với khói lam chiều – Sao chun mũi nhận xét.
Mọi người cười ồ, cảm thấy thoải mái vì đoàn toàn người có vẻ dễ thương. Không khí càng thêm thân thiện khi Lam mời mọi người sôcôla Thụy Sĩ. Anh cao dong dỏng, vẻ thư sinh với chiếc sơmi ngắn tay màu vàng chanh, mắt đeo kính thông minh và nụ cười hóm hỉnh.

Sao ngồi sát bên anh, thấy những ngón tay thon trắng trẻo và chưa bị chiếc nhẫn nào ràng buộc. Cô cười thầm, xấu hổ nhớ lời bà thầy bói phán “Cô sẽ gặp hôn nhân bất ngờ, với một người khác xứ sở. Tóm lại là Việt kiều hay ngoại kiều.”

- Sao còn đi học hay ra trường rồi? – Lam thân thiện.
- Anh muốn hỏi tuổi em chứ gì? – Sao nheo mắt đề phòng.
- Chỉ để hiểu hơn về bạn đồng hành – Lam nhìn Sao dịu dàng.
- Em già rồi, hai mươi sáu tuổi – Sao đột nhiên thành thật trước ánh mắt anh.
- Tự em khai đó nhé – Lam dịu dàng cười – Vẫn còn trẻ lắm so với anh và so với cả đoàn này. Thế mà đã một mình đi du lịch, hay lắm.

Sao cười nhún vai vẻ kiêu hãnh, chẳng rào trước đón sau kể mình làm việc trong bộ phận ngoại giao của một công ty đa quốc gia nên đã có dịp đi khá nhiều nước. Thậm chí thành phố nơi Lam ở bên Thụy Sĩ cô cũng có thể đã đặt chân đến.
- Thế Sao? – Lam trêu, nhìn cô thú vị – anh ở Berne, vùng nói tiếng Đức.
Sao bẽn lẽn thú nhận cô chưa đến, anh cười “Vậy thì để anh kể em nghe về thành phố này và hy vọng đón tiếp em một ngày gần đây”.

Lúc xe dừng lại làm thủ tục qua cửa khẩu, Sao đã thấy gần gũi với Lam thật nhiều. Cô kịp biết anh là kỹ sư tin học, xa quê hương đã mười tám năm. Qua biên giới đoàn đổi xe, anh trưởng đoàn giới thiệu tài xế người Campuchia và một hướng dẫn phụ là Việt kiều Campuchia tên Gia. Gia chào mọi người với nụ cười rám nắng khỏe mạnh rồi nhiệt tình giúp chất hành lý lên xe mới. Lam có vẻ rất cảm tình với Gia nên đề nghị anh ngồi chung băng ghế. Sao hỏi anh ở Campuchia lâu chưa. Anh nói mình sinh ra và lớn lên tại Phnom Penh, đôi lần qua Sài Gòn theo lời mời của khách nhưng lúc nào cũng thấy xa lạ.

- Sao vậy? – Lam hỏi.
- Tại nhiều khi khách mời “qua Sài Gòn ở nhà tui, tui dẫn đi chơi”, họ mời cho vui ai dè em đi thiệt – Gia trả lời với cái giọng thật thà làm mọi người bật cười - Qua đến nơi họ không nhiệt tình lắm. Dẫn đi hồ Con Rùa, siêu thị, tượng Bác. Rồi xong!
- Em làm hướng dẫn du lịch lâu chưa? – Lam tiếp tục hỏi.
- Cũng mới. Tại dân Việt mình vừa ngại vừa chê Cămpuchia. Có tiền đi Mỹ đi Tây chứ đâu ai du lịch qua xứ này. Từ hồi có phim “Bí mật ngôi mộ cổ”, thấy đẹp, khách mới tò mò đi thử. Mà cũng ít khách, như đoàn này chỉ có bảy người. Em có nghề khác, thỉnh thoảng mới làm hướng dẫn để được gặp người Việt bên nước sang.

Từ lúc có Gia lên xe, đoàn tỉnh ngủ. Trong cách kể chuyện dường như quá thật thà của anh lại có chứa duyên ngầm. Gia nói gia đình anh có khách sạn mini tại Phnom Penh, anh sáng làm giám đốc tối làm bảo vệ, nếu cần kiêm luôn dọn phòng và thường xuyên đóng vai khuân vác. Mọi người thay phiên nhau hỏi đủ thứ chuyện, từ chiến tranh, chủ nghĩa diệt chủng của Pôn Pốt, đến tình hình cuộc sống dân thường ngày nay. Gia cứ thế lần lượt trả lời một cách mộc mạc làm cả đoàn thoải mái cười thú vị.

Sáng hôm sau đoàn đi tham quan quần thể những ngôi đền cổ trong khu Ankor. Sao lân la bên Lam nhưng anh quá say mê vuốt ve từng phiến đá, trầm trồ những vết chạm khắc và bỏ hết tâm trí vào chiếc máy quay phim. Lẽ ra Sao cũng làm như anh vì cô thật sự yêu kiến trúc và hội họa, tiếc rằng những phiến đá chạm trổ dù có công phu đến đâu cũng không thu hút cô bằng một người đàn ông lịch lãm. Xung quanh ai nấy đều có đôi có cặp, Sao thấy mình lẻ loi.

Gia đột nhiên đến bên Sao: “Hình như em không vui?” rồi không chờ cô trả lời, anh kéo tay cô về hướng khác nhiệt tình giới thiệu những bức tượng Bayon có khuôn mặt cười tự tại, bất chấp những thăng trầm của cuộc đời. Sao nhận ra Gia không phải là loại người chỉ biết trả lời những câu hỏi của người khác. Anh hồn nhiên nói sáng nay nhận ra Sao không phải người yêu của Lam, tự nhiên thấy cô đẹp hẳn ra. Sao bật cười, thấy an ủi phần nào. Lúc cần lên những ngôi đền cao khá dốc với những bậc thang nhỏ hẹp rất khó leo, Gia đề nghị: “Anh phụ cho!”, rồi vô tư nắm tay cô kéo lên. Xung quanh, những cặp vợ chồng trong đoàn cũng đang dìu nhau. Lam đã một mình lên đến nơi, đứng lia máy quay phim khắp phía. Sao cố không đưa mắt tìm Lam nữa, cô vờ bận rộn nhìn ngắm nơi được xem là kỳ quan thế giới và mặc nhiên xem Gia như người chụp ảnh riêng cho mình.

Buổi tối đoàn dự tiệc và xem ca múa cung đình. Thấy Lam không còn bận bịu với máy quay phim, Gia hỏi:
- Anh không thích con gái Miên sao? Thường khách hay quay phim họ lắm!
- Anh thích cảnh Ankor hơn – Lam
nhún vai cười – Còn Gia? Sống ở đây từ nhỏ đến lớn, chắc rồi cũng lấy vợ Campuchia?

- Em không thích con gái Miên– Gia thật thà – Họ da đen quá, lại hay trét kem dày ơi là dày, đứng gần có mùi kỳ kỳ.

Mọi người đã bắt đầu bật cười vì sự tả thực của Gia nhưng anh không quan tâm.
- Em thích con gái Việt – Gia khẳng định chắc nịch - Đẹp tự nhiên, da trắng và thơm lắm.
- Vậy Gia có hay tán tỉnh mấy cô khách du lịch từ Việt Nam qua không? – Lam cười hỏi, mắt kín đáo nhìn Sao
- Ít lắm! Đa số đều đi với chồng hay người yêu, còn mấy người đi lẻ như Sao cũng khó quen – Lam nêu đích danh Sao làm mọi người nhìn cô cười – Gặp có mấy ngày, chưa kịp tìm hiểu thì xa nhau rồi.
- Vậy đành chịu thua à? – Lam không tha.
- Thì mình chân thành – Gia vẫn tự nhiên tâm sự giữa bàn tiệc – còn thì phải xem tánh ý người ta, rồi do cơ duyên nữa!
- Nhưng nếu già rồi mà vẫn chưa có người yêu Việt thì anh có cưới đại con gái Miên không? – Sao lúc này mới lên tiếng.
- Không biết nữa! – Gia cười, có vẻ gì vừa vô tư vừa buồn bã – Hy vọng không đến nỗi.

Làm việc trong môi trường ngoại giao, Sao quen thuộc với những câu nói lịch sự, những quan hệ xã giao, những ứng xử chừng mực. Vẻ mộc mạc và lối suy nghĩ đơn giản của Gia làm cô thấy lạ. Sao ngắm lại Gia, một thanh niên sinh ra và lớn lên không phải trên đất nước mình. Anh cũng chẳng sống tại một nước tiên tiến giàu có ở phương Tây để thỉnh thoảng về Việt Nam huênh hoang. Gia có một vẻ nam tính làm an lòng người với làn da rám nắng, đôi vai rộng, vòng ngực nở, chiếc mũi cao và đôi mắt hiền từ. Lúc vào thang máy chỉ còn hai người, Lam nhìn Sao nhẹ nhàng: “Gia dễ thương, phải không em?”. Sao không đáp, cô gật đầu ra vẻ đồng tình rồi bỏ về phòng mình.

Đoàn rời Siêm Riêp về Phnom Penh trên chiếc tàu cao tốc tại Biển Hồ. Gia giúp Sao lên mui thuyền ngắm dòng Tonlé Sap. Cô để mặc Lam chĩa máy quay về phía mình và Gia rồi cười ngụ ý với mọi người trong đoàn. Ai cũng có thể thoải mái trêu chọc Gia với Sao. Cô không phản đối, chỉ khó chịu mỗi khi Lam hùa theo. Buổi tối, chương trình tự do, Lam thân thiện đề nghị Gia về nhà lấy xe Honda chở anh và Sao dạo phố. Sao lọt thỏm giữa Gia cầm tay lái và Lam ngồi phía sau, nhìn “PnomPenh by night” chẳng biết nên vui hay buồn. Và rồi cô đã buồn thật sự khi tối đó Lam gõ cửa phòng nói với cô: “Gia thật thà quá! Nó rất thích em. Nếu đó không phải là mẫu đàn ông của em, em nên tế nhị cho Gia biết. Đừng để Gia nuôi hy vọng!”. Sao bực: “Em đâu hứa hẹn gì!”. Lam nhìn thẳng vào mắt cô: “Anh biết, người như em, đi nhiều, gặp nhiều, Gia không hẳn là lý tưởng. Thì trân trọng nhau cái tình, em ạ!”. Sao gật đầu, khép cửa phòng. Một đêm mất ngủ.

Đoàn chia tay Gia tại biên giới, anh cười hiền lành: “Biết khó có dịp gặp lại, nhưng cứ hy vọng đi!”. Mọi người đã trao đổi địa chỉ liên lạc, hứa hẹn thể nào cũng có ngày quay lại Campuchia. Lam đại diện đoàn phát biểu: “Đất nước này chứa đựng nhiều điều kỳ diệu và một kỳ quan thế giới thật hùng vĩ. Thế mà có lẽ vì chúng ta ở quá gần lại mang nhiều thành kiến nên không biết rằng ở sát bên ta là một nơi đáng được trân trọng!”.

Phần Sao, cô chỉ biết nhìn Gia cười: “Cảm ơn anh nhiều lắm, mấy ngày nay làm thợ chụp hình cho em”. Gia không trả lời, nhìn cô cười dịu dàng. Lam có vẻ chờ đợi Sao nói điều gì đó cụ thể hơn, anh đến vỗ vai Gia thân thiện: “Nói thiệt nhé, vợ anh người Miên đó, đẹp lắm chứ đâu có xấu mà Gia chê con gái Miên dữ vậy! Tại kỳ này cô ấy không nghỉ phép được nên không đi cùng anh. Hè tới chắc chắn anh lại cùng sang Campuchia với bà xã”. Mọi người ồ lên, Gia chưng hửng: “Vậy hả?”, rồi toét miệng cười không biết nói gì thêm. Người tài xế thúc hối anh lên xe cho kịp đoạn đường quay về Phnom Penh trước lúc trời tối. Sao đứng lại nhìn cái dáng to cao vững chãi của anh khuất trong xe rồi vội vã đuổi theo mọi người đã vào đồn hải quan khai báo nhập cảnh.

Đoạn đường còn lại về Sài Gòn vắng hẳn tiếng cười, mọi người gà gật mệt mỏi. Sao thấy thật vô lý nếu cô không tiếp tục trò chuyện cùng Lam. Nhưng khả năng ngoại giao không giúp gì được Sao trong lúc này, cô vờ vùi mặt ngủ. Sao thấy “thù” mấy bà thầy bói, làm cô “hố” quá nặng. “Nhưng thật ra Gia cũng là Việt kiều đó chứ!”, cô bật cười chua chát với ý nghĩ này.

Sau chuyến đi, Gia phone cho Sao một lần, nhắc những kỷ niệm của kỳ du lịch. Lam cũng gởi email kèm những tấm hình chung nhóm và bức chân dung Gia với lời nhận xét “trông như một bức tượng Bayon thư thái”. Cô không liên lạc với Gia, cũng chẳng biết trả lời email cho Lam thế nào. Thỉnh thoảng nhớ lại chuyến tham quan sang đất nước Chùa Tháp, Sao bồi hồi tự hỏi Gia đã tìm thấy cho mình một cô gái Việt chưa hay đã bị Lam thuyết phục phụ nữ Miên cũng đẹp lắm? Dù gì tiêu chuẩn “con gái Việt da trắng” của anh vẫn quá đơn giản so với Sao.

Càng tiến dần đến tuổi ba mươi cô càng thấy hy vọng tìm ra một nửa của mình thật mong manh. Dẫu giao tiếp nhiều, cũng chỉ là những mối quan hệ xã hội với những cái bắt tay hờ hững, những ánh mắt mơ hồ và những lời nói đầu môi. Để rồi trong những đêm lẻ loi mất ngủ, Sao nhận ra vẻ mộc mạc chân thành của Gia thật đáng quí. Cái dáng người vững chãi và khuôn mặt hiền lành đó, giờ đã quá xa.../.




Đi qua thời gian - Phan Việt

Tôi quyết định chia tay anh. Ý thức được điều ấy không phải dễ dàng. Tôi đã đau biết chừng nào mặc dù tôi vẫn tỏ ra rất bình thản. Mẹ nói: “Dạo này trông con hơi xanh. Thức khuya vừa thôi, đi ít thôi và bớt làm việc đi một chút. Làm là làm cả đời chứ có phải một sớm một chiều đâu mà vội.

Sức khỏe là quí nhất, con ạ, tiền cũng chẳng mua được”. Tôi nói khẽ để làm việc và để khỏi phải nghĩ về anh. Ngày nào tôi cũng đi làm từ sớm và về lúc chiều thật muộn, cố vứt bỏ cái thói quen ghé vào nhà anh trên đường về lúc tan tầm.

Sự náo nhiệt của phố phường, cái tình yêu cuộc sống luôn âm ỉ cháy trong tôi từ trước khi biết anh và sự reo vang tưởng như bất diệt của cuộc đời giúp tôi bình tâm được đôi chút trên những quãng đường dài, mệt mỏi giữa hai lần đèn giao thông xanh đỏ cứ chớp chớp như những con mắt buồn ngủ. Tôi thấy mình lâng lâng, muốn gượng lên nhưng mà ý chí và cảm xúc cứ trôi tuột, buông xa. Tôi nhủ thầm rằng tôi mặc kệ chúng. Và tôi đã mặc kệ được khá lâu rồi. Tôi biết mình chịu đựng được.

Chuyện cũng chẳng có gì nhiều, nếu không muốn nói là không hề tồi tệ hơn những lần giận dỗi nhỏ mà chỉ mình tôi biết trước đấy. Đây có lẽ là lần đầu tiên anh cảm thấy rằng anh đã làm tôi tổn thương. Anh lúc nào cũng thế cả. Vẫn là sự vô tâm cố hữu. Vẫn là cái thói mặc kệ cho mọi việc đến và đi, không níu kéo, không đấu tranh.

Tôi đã tha thứ nhiều lần; lần nào cũng là tự mình lại tha thứ. Cái tình cảm lâu bền mà chúng tôi đã có ấy có khi còn hơn cả một tình yêu. Nó là một trạng thái nương tựa lạ lùng, là cần đến ai đó cho sự sống của mình, là làm cho mình dũng cảm và tốt lên, là thấy mình vững chãi, bình yên… - thiêng liêng và giản dị biết bao. Bao giờ tôi cũng tha thứ được. Tôi biết anh đã mệt mỏi với tuổi thơ bất hạnh của mình.

Có lẽ anh đã quen với sự bất hạnh đến mức không dám tin và bám giữ lấy hạnh phúc tồn tại trong dáng dấp một cá thể nào đó vì sợ rằng rồi ngày kia, khi nó bỏ ra đi giống như người ta vẫn có thể giận và bỏ nhau đầy vô cớ trong cuộc sống này, anh sẽ không còn gì, không còn lại cả cái tự chủ, kiêu hãnh kiểu một người cô độc như bây giờ anh đang cố bám giữ, cái đã làm cho tôi thương và quan tâm đến anh. Lúc nào anh cũng lặng lẽ chịu đựng và lần nào tôi cũng lặng lẽ quên đi; để rồi chúng tôi luôn phải tránh nhắc lại những vết thương cũ.

Bây giờ, cũng chẳng có lý do gì đủ lớn và đúng đắn cho quyết định của tôi cả. Có điều, tôi không còn tin rằng mình đủ độ lượng và yêu thương, cũng không còn đủ kiên nhẫn với sự chịu đựng dũng cảm của cái đầu óc rành mạch và nghiêm khắc ấy, không còn muốn cố gắng đi một mình trên con đường dài chông gai ấy nữa. Tôi không tin rằng người ta xứng đáng được hưởng hạnh phúc nếu không tìm kiếm và giữ gìn. Tôi thấy mình bị tổn thương.

Đã bao thời gian đi qua rồi nhỉ?

Sáng nay cũng lại là một sáng bình thường nữa thôi. Tôi thấy lòng buồn bã nhưng cứng cỏi – đấy là một cảm giác ngấm sâu như rượu cần và ăn mòn như a xít. Tôi không cho những ý nghĩ trỗi dậy nữa mà quyết định đi làm sớm hơn thường ngày. Nhưng cái đồng hồ báo thức vừa gõ 6 tiếng nhẹ nhàng và êm ái kia là cái đồng hồ mà anh đã mua cho tôi.

Anh nói: “Em thật là người biết quản lý thời gian, thật là người biết thưởng thức cuộc sống đấy”. Và cái đoạn opera trích trong vở Carmen mà tôi đang nghe đây thì làm cho tôi nhớ đến những lần đi hòa nhạc trong Nhà hát Lớn, đi xem phim và đi nghe hát với anh.

Tôi sẽ nghe hết đoạn nhạc này, đoạn nàng Carmen trêu chọc Don Jose, rồi sẽ rời khỏi cái giường ấm áp này, sẽ xuống nhà ăn sáng với bố mẹ, sẽ đánh răng rửa mặt bằng nước ấm ủ trong cái phích nước màu đỏ rồi dắt xe đi làm. Tuần tự từng việc một. Tôi biết mình buồn.

7 giờ sáng. Những cặp vợ chồng trẻ đưa nhau đi làm. Tôi thấy họ đáng thương. Ngày mai, rất có thể một nửa trong số những đôi vợ chồng và người yêu kia tuyên bố bỏ nhau và sẽ có thêm một nửa số người buồn bã một cách lặng lẽ và can đảm như tôi lúc đứng dưới đèn đỏ chờ đến lượt qua đường và câu dầm niềm vui sống của mìn trên từng việc nhỏ nhặt, vặt vãnh, tuần tự.

Bác bảo vệ già tươi cười chào tôi và hỏi: “Thế nó đâu mà đi một mình hả con?”. Tôi khẽ cười: “Dạ, anh ấy bận đi công tác”. Không vui, không buồn vì câu hỏi ấy. Tôi thấy bác bảo vệ cũng đáng thương. Làm sao mà tuổi già của bác còn phải nhớ hết tên bạn trai, bạn gái của những nhân viên trẻ như tôi trong cái trụ sở to lớn này.

7 giờ 30 sáng, tôi kiểm tra hộp thư điện tử trước lúc vào làm. Có một đống thư công việc chán ngắt với một vài cái thư của bạn bè và một cái thư của một người bạn rất thân đang ở bên Anh. Đấy là một người mà tôi đã ương bướng từ chối để yêu anh, một người con trai hiểu tôi, trân trọng và thương tôi đến mức tôi ưng nhận làm anh trai hơn.

Anh ấy hỏi thăm sức khỏe, công việc và không biết vì sao lại nói một câu bâng quơ: “có gì trục trặc, nhất định phải nói cho anh biết. Nhớ là đừng bao giờ để một xích mích nhỏ làm hỏng một tình cảm lớn, nghe chưa”. Tôi nhớ đến những kỷ niệm cũ với anh, băn khoăn không biết đấy có phải một tình cảm lớn. Tôi không tiếc nhưng buồn.

11 giờ 30, tôi quyết định không đi ăn cơm với mọi người mà đi ăn một mình và đi bộ sang phố Tràng Tiền mua mấy quyển sách về đọc. Lâu rồi tôi chưa đọc được truyện gì mới mà dạo này lại khó ngủ. Trong hàng fastfood, những người nước ngoài bắt tay và hôn má khi gặp mặt, lại bắt tay và hôn khi ra về, cầm tay mà đi dung dăng trên phố. Họ cười nói thoải mái và thẳng thắn. Tôi lại nghĩ giá như văn hóa của chúng ta cũng cho phép điều đó thì tôi đã có thể nói thẳng với anh rằng tôi đã thương và kỳ vọng ở anh biết chừng nào.

Lúc 12 giờ rưỡi trưa, hiệu sách Tràng Tiền vắng tanh, chỉ có mấy cô phục vụ quầy trẻ tuổi ngồi nhàn nhã. Một nửa trong số họ sắp làm mẹ và tôi nhìn thấy niềm hạnh phúc đáng yêu trên những gương mặt trẻ, rạng ngời. TS - bản thân nó đã có nghĩa là hạnh phúc và cái đẹp rồi, phải không nhỉ? Ở quầy sách ngoại văn, cô gái trông quầy đang nói điện thoại:

- Thôi mày ạ, chẳng nên tiếc làm gì – tôi nghe thấy cô ấy nói – mày cứ làm cái gì
mày cho là đúng đắn, còn đến đâu thì kệ. Có tình cảm thì thế nào mọi chuyện cũng qua; còn nếu không thì cố cũng chẳng được. Trong tình cảm, không giở lý ra được đâu; chừng nào còn thế thì chẳng đến đâu cả…

Ngừng một lát.

- Biết rồi…, thì mày cứ thử xem, không về sau lại hối hận. Đừng suy diễn làm gì, chỉ căn cứ vào thực tế hiện tại thôi, chuyện cũ đừng bới lại… Hả? Được rồi, mà tao nói thật nếu có xung đột thì phải giải quyết sớm đi, để lâu thế nào cũng rắc rối lắm đấy… ờ… ờ…

Tôi tưởng tượng lại một cô gái nào đó xung đột với người yêu. Tôi muốn gào toáng lên thật to. Ôi trời ơi, thế giới này có mỗi chuyện ấy để nói thôi à? Mà sao lại toàn là các cô gái thế không biết. Tôi nghĩ đến anh và tưởng tượng có lẽ bây giờ anh cũng đang hợm hĩnh lắm với sự chịu đựng của mình.

Tôi thấy mình ghét anh và tôi ghét sự bướng bỉnh của anh. Nhưng nếu anh không bướng bỉnh và không dũng cảm chịu đựng như thế, tôi đã chẳng thương và tha thứ cho anh bao lần từ trước đến giờ. Anh chẳng giống những vậy chút nào. Nhưng hình như cái gì cũng có giới hạn thì phải.

Tôi mua hai quyển truyện cổ Anđecxen, một quyển truyện ngắn Mỹ và một quyển truyện của Pautôpxki, cứ như để trả công cho sự hảo tâm của cô gái đứng quầy với người bạn gái đáng thương nào đó của cô ấy. Tôi không muốn nghĩ đến anh nữa.

3 giờ chiều, Fred – giám đốc người Mỹ - nói với tôi rằng chúng tôi đã ký được cái hợp đồng khó nhọc ấy và anh sẽ chiêu đãi mọi người, nhất là tôi vì đã vất vả suốt thời gian vừa qua. Fred nói rằng kinh nghiệm và sự điềm đạm, chắc chắn của tôi, là một tài sản. Người nước ngoài thật lịch sự và khéo ăn nói. Nhưng chính anh cũng đã có lần nói với tôi rằng anh thích sự điềm đạm của tôi.

Chúng tôi đi uống bia và ăn uống linh đình; mọi người cười đùa và trêu nhau ầm ĩ; tôi hứng chí xung phong hát một bài hát tiếng Anh của Beatles, lời của nó nói rằng “Ngày hôm qua, mọi nỗi buồn của tôi tưởng đã rời xa; thế mà bây giờ chúng dường như hiện hữu cả nơi này”. Tôi thấy mình mệt và hình như là ngu xuẩn.

5 giờ chiều, tôi quyết định về nhà, mặc cho mọi người níu kéo. Tôi cũng không muốn quay lại văn phòng để làm việc muộn hôm nay nữa. Tôi tưởng tượng mình đi qua về qua chợ, mua một ít đồ ăn ngon mang về cho mẹ nấu và mua kem rồi sẽ ăn một bữa tối không vội vàng với bố mẹ. Như thế sẽ thanh thản biết bao.

Và tối nay tôi sẽ không làm việc mà ngồi xem phim với mẹ hoặc nằm ở phòng khách mà đọc sách hay nói chuyện thời sự với bố, hoặc bàn chuyện kinh doanh. Tôi sẽ đi ngủ khi thật mệt rồi. Phải, bố mẹ luôn tự hào về tôi biết chừng nào và tôi bao giờ cũng bé bỏng, đáng thương và đáng yêu cả. Tôi muốn về nhà.

5 giờ rưỡi chiều. Đường phố đông đúc và bụi. Lại tắc đường. Tôi không thấy mình bực mình. Cũng không sốt ruột. Trên vỉa hè, những em học sinh nhỏ đi học về cười đùa ríu rít. Một vài nhà hàng và cửa hiệu đã bắt đầu thắp đèn. Tôi nhớ đến mùa đông trước vẫn thường hay chạy xe cùng anh loanh quanh qua các phố vào tầm này rồi đi ăn tối ở đâu đó.

Nếu bây giờ ghé vào nhà anh, nhìn thấy anh, cười với anh và nói một điều gì đó thật càn quấy hoặc có khi cũng chẳng cần nói gì cả, chỉ cười thôi thì tốt biết bao. Cái ý nghĩ ấy đi qua nhanh như một cơn gió. Tôi nhớ lại cái email lúc sáng và những câu nói bâng quơ của cô gái bán sách trên phố Tràng Tiền.

Đèn xanh. Tôi rẽ về phía tay phải.

Friday, April 25, 2008

Ga xép - Phan Hồn Nhiên

Giống như một con thuyền neo chặt và bị bỏ quên, thành phố nhỏ có cái tên mơ hồ thường xuyên tròng trành dưới các luồng gió thổi về từ biển. Không khí phảng phất mùi cá muối. Ra khỏi sân ga xép, Hoan không bắt gặp taxi hay loại xe chở thuê nào. Viền theo con đường hẹp bỗng lên dốc cao, những vòm lá buổi trưa xanh sẫm. Biển hiện ra đột ngột, vẫn duy nhất màu xanh khó hiểu chỉ có ở chốn này. Khách sạn có lẽ cuối đường. Hoan ngồi xuống băng ghế trắng đặt dưới bóng cây bàng. Cái túi du lịch nhỏ tựa con chó bám đầy bụi nằm thở bên chân cô. Nếu đường sắt đừng hỏng, cô đã về thẳng nhà sau chuyến công tác dài ngày. Nhưng giờ đây cô đang ở nơi xa xăm, không đầu mối níu giữ ngoài địa chỉ khách sạn do một người đồng hành trên tàu ghi vội. Chạm mắt màu vàng của trạm điện thoại, Hoan xách túi, băng ngang con đường buổi trưa trống không. Trưởng phòng đồng ý cho cô về muộn mấy ngày, tiếng trong ống nghe như vọng tới từ hành tinh khác. Thoáng lưỡng lự, một lần nữa Hoan ấn thẻ điện thoại. Nghe báo tin, Huân, người mà sau chuyến đi cô sẽ cùng đính hôn, bày tỏ sự ngạc nhiên mờ nhạt.

- Không sao cả - Cô cho biết - Em vừa xuống ga xép, đang ở một nơi yên tĩnh . Khi đường ray sửa xong, em lên tàu về ngay.
- Thế cũng được. Đâu cần phải vội vã… Giọng Huân bồn chồn. Anh muốn chấm dứt câu chuyện khi có không còn thông tin nữa.

Tấm bảng gỗ ghi tên khách sạn hiện ra ở một khúc quanh. Người tiếp tân đứng trong quầy ngước đôi mắt xa lạ nhìn Hoan bước vào. Ông ta hít nhẹ cánh mũi xanh tái, cho cô xem bảng giá phòng. “Tôi muốn nhìn ra biển” - Hoan đề nghị. “Những cửa sổ đều nhìn ra biển” - người tiếp tân trả lời. Cô mượn mấy tờ báo cũ, cầm chìa khoá lên cầu thang. Khách sạn không trống trải ố vàng. Có một lúc choàng tỉnh giấc ngủ mệt nhọc, cô sững sờ với bức tranh xanh rực. Nhưng chỉ là khung cửa sổ trên tường nhìn ra mặt biển và bầu trời toả sáng, bất động. Cô lấy mấy trang báo địa phương, lục lọi tin tức khả dĩ. Có lẽ cô nên tìm một ai đó để phỏng vấn hơn ngồi im chờ đợi đến khi những thanh tà vẹt được khôi phục. Người tiếp tân gõ cửa, đưa khay nước. Hoan hỏi ông ta về thời tiết. “Ngày nắng khô dễ chịu. Tối khác. Tối cô sẽ thấy mưa…” - Câu trả lời như một hứa hẹn âu lo.

Không có mối liên hệ giữa giọng nói qua điện thoại đồng ý gặp Hoan hôm qua với ngưòi thanh niên trẻ có mái tóc dài và thẳng lúc này đang lơ mơ nhìn các vật trang trí treo góc quán. Thoạt nhiên Hoan nghĩ có sự nhầm lẫn. Tay kiến trúc sư gây cho cô ấn tượng lạ lùng, nhưng thói quen thích ứng nhanh chóng của phóng viên khiến cô giữ thăng bằng ổn thoả. Về những bản đồ án đã thiết kế, T. trả lời nữ phóng viên tuần tự, đầy đủ chi tiết, dự đoán các vấn đề cô sắp đặt ra và phơi bày chúng theo chừng mực đúng như anh ta muốn. Ngoài ra không còn gì hơn. Các câu hỏi dẫn dắt tiếp theo nữ phóng viên đặt ra hầu hết khiến tay kiến trúc sư trẻ phải bộc lộ đôi chút suy nghĩ riêng tư bị bỏ qua thờ ơ. Những thông tin Hoan thu nhặt giống như những con ốc rỗng ruột nằm dày đặc trên bãi biển. Cô đóng nắp bút, hơi khó chịu.

- Thoạt tiên tôi đã không hiểu do đâu bài viết về anh rất mờ nhạt trên tờ báo địa phương. Tuy nhiên có lẽ chẳng phải do người viết.
- Thế ư? - Đôi mắt T. nhìn cô trong suốt - Nhưng cô nói điều ấy để làm gì?
- Thỉnh thoảng, tôi nói thật suy nghĩ mình - Nữ phóng viên giải thích đơn giản.
- Chúng ta còn gặp lại không? - Anh ta hỏi đột ngột.
- Tôi sẽ điện thoại cho anh, nếu cần.

Hiếm ai nhận ra một khi thường xuyên tiếp xúc kẻ khác, người ta có khuynh hướng khép kín và lẩn tránh thiết lập các mối quan hệ mới. Cô uống hạt nước cuối cùng sót dưới đáy cốc. Khoảng hơn chín giờ. Những con ve vô hình bắt đầu cào xước bề mặt tĩnh lặng mùa hè. “Bây giờ anh đi đâu?”. Cô hỏi thay lời tạm biệt. “Về văn phòng. Và bắt tay vào bản vẽ. - T. đứng dậy - Ngoài ra không có gì đáng làm hơn…”. Đó là hé mở xúc cảm duy nhất của anh ta để lộ suốt cuộc phỏng vấn mù mờ và căng thẳng. Trên chiếc xe đạp màu xanh thuê của khách sạn, Hoan chạy dọc con đường viền theo bờ biển. Hiếm khi cô thảnh thơi thế này. Sau những chuyến đi, các cuộc gặp gỡ dày đặc, nghĩ về thời gian trôi qua là điều khủng khiếp, thi thoảng, như tất cả các đồng nghiệp suy nhược, cô cũng tự hứa quãng ngày nghỉ ngơi. Nhưng một điều gì cứ lôi họ đi, không thể dừng lại… Chiếc xe đạp rẽ sang đoạn phố mới. Cuộc sống khác hiện ra trước mắt Hoan. Người đông lên đột ngột, nói cười xôn xao. Nhưng xe ba bánh gõ cồng cộc vào vỉa hè. Quảng trường nhỏ vây quanh bởi vô số cửa hiệu treo đèn lồng, vài công sở quét vôi màu sậm. Đây là cuộc sống khác nơi cô có thể hoà lẫn vào, biến thành một con chuồn chuồn đỏ, chẳng cần nỗ lực - Hoan nghĩ yên lặng, vui sướng với khám phá không ngờ. Thế nhưng, bất giác cô nhận ra cánh cửa kính toà nhà phía trước bật mở. Một người vẫy nhẹ cô bằng mảnh giấy trắng loá. Là T… Hoan nhảy lên chiếc xe đạp xanh, phóng nhanh theo hướng ngược lại. Một ý nghĩ xâm chiếm mách bảo cô anh ta ở đấy, chờ sẵn nơi đấy. Vì anh ta biết cô sẽ đến.

Tịnh không ngọn gió. Những thân cây mảnh khảnh ánh lên như dát bạc trên nền trời đỏ rực. Sau giấc ngủ dài trong căn phòng yên lặng, Hoan không còn tin vào mắt mình. Như thể khi cô ngủ, cả thế giới đã bay lơ lửng sang vùng ánh sáng khác, lạc lõng và đơn độc. Ảo giác thoáng qua ấy khiến cô thấy mình bé nhỏ biết bao. Người tiếp tân khách sạn mang lên cơm chiều. “Lạ quá!” - Hoan nói, chỉ mây mỗi lúc thêm bầm đỏ trên mặt biển. “Sắp mưa đấy - Ông ta giải thích - Mưa ở đây rất khác. Nó làm người ta điếc tai. Giống như một bản nhạc khó chịu. Khi ấy tốt nhất đừng nghĩ gì. Cô hãy tìm một quyển sách mà đọc.!”. Nữ phóng viên gật đầu cảm ơn. Khép cánh cửa, cô ngồi trên giường chậm rãi dùng bữa chiều. Lẽ ra giờ này cô cần ra trạm điện thoại gọi về cho Huân. Nhưng anh ta không đợi cô nữa đâu. Mối quan hệ giữa họ thật kỳ quặc. Vừa bền chặt đến mức tường tận ý nghĩ của nhau dù ở rất xa, vừa yếu ớt cho sự lãng quên luồn vào trong khoảng thời gian ngắn ngủi. Có phải như vậy mà cô và anh ta lựa chọn nhau? Có phải cùng thấu suốt tự do ấy nên họ sẽ gắn bó với nhau lâu dài?… Mưa. Những cành cây kêu răng rắc. Vài bông hoa đỏ mọng nước rơi rượt qua dải ngói hẹp tối thẫm. Những đứa bé trồng cây chuối di chuyển trên vỉa hè. Một con chó trắng bết mưa chạy xuyên làn nước. Không khí co lại vì lạnh. “Ông tiếp tân nói đúng - Hoan rùng mình - lúc này đừng nghĩ gì. Một người thông minh để chuẩn bị chung sống. Người ta thường không ý thức những gì đang có…”. Cô đọc quyển sách cũ. Nhưng trong cô mọc lên nỗi phân vân chưa biết rõ nguyên do.

Tiếng gõ rụt rè trên cửa. Trán Hoan còn nặng giấc ngủ. Kim đồng hồ dạ quang chỉ gần mười giờ đêm. Người tiếp tân mũi xanh tái nhìn cô bằng con mắt buồn rầu ngoài hành lang: “Có người chờ cô dưới kia”. Hoan thoáng hy vọng bên đường sắt báo tin tốt lành. Tuy nhiên, khi cô xuống, nhà dưới chẳng ai cả. Có thể là trò đùa không vui. Nữ phóng viên toan trở lên phòng. Đúng lúc đó, từ chiếc ghế sau tường, đột ngột T. đứng lên. Gương mặt sáng mờ giữa bóng tối màu hổ phách, những hạt nước to đọng trên mớ tóc dài buộc chặt, và đôi mắt như hai cánh cửa mở rộng nhìn Hoan đăm đăm:

- Tôi không ngủ được!

- Mưa to ghê gớm - Cô thì thầm - Tôi đã ngủ rất lâu. Anh biết tôi ở đây ư?

Người đàn ông trẻ nhìn sâu mắt Hoan: “Tôi đoán ra”. Cô tiến về phía anh, chạm tay vào vai anh. “Chúng ta đi thôi!” - T. nói khẽ. Họ bước ra khỏi khách sạn nóng ẩm, bỏ lại sau lưng tia nhìn bàng hoàng của ông tiếp tân. Men theo vỉa hè ướt sũng mưa và ánh đèn yếu ớt, bóng hai người mảnh khảnh trùm áo nhựa mỏng lấp loáng. Họ đi về phía biển. Trong cơn mưa tựa một bản nhạc choáng váng, thành phố lạ giống như con thuyền nhổ neo, can đảm bơi ra đại dương. Gió rất mạnh, cắt làn mưa dày đặc thành những khối vuông chao đảo trên mặt biển trơn nhẫy, không ngừng oằn lên thành những đợt sóng ầm ì. “Chúng ta đi thôi!”- T. nhắc lại. Nữ phóng viên giữ nhịp bước đều đặn với anh. Những chiếc xe cuối cùng của ngày đã biến mất. Thành phố đăng mọc giữa vịnh nhỏ xa xôi. Chẳng còn bóng tối hay cơn mưa dai dẳng, chỉ duy nhất vệt sáng quét vào khoảng không gian thẫm xanh. Vượt lên sự bất ổn, nỗi vô cảm, từ sâu thẳm trong những con người trên bờ biển cũng toả ra nguồn sáng lặng lẽ, không sợ hãi. Hoan lặng lẽ khóc. Khi bàn tay T. chạm nhẹ lên lưng, cô tựa hẳn vào anh. Họ đứng như thế, không hề biết bao nhiêu lâu, bao nhiêu mưa đã rơi qua. Tuổi trẻ, sự lựa chọn, tình yêu, nỗi đơn độc… Các ý nghĩ xao xuyến, mãnh liệt ập đến không ngờ. Hai người cùng tuổi chỉ mới hôm qua còn chưa hề quen biết giờ đây gắn kết với nhau trong cuộc đi chơi kỳ dị, không định trước. Người kiến trúc sư trẻ đứng im, vòng tay ôm cô gái gầy guộc, cái người lạc ở thành phố lạ nhưng đủ lòng tin đi cùng anh một đêm đầy mưa. Tình cảm biết ơn dâng trong anh thầm lặng, xé rách thói quen thờ ơ và trạng thái không hy vọng… Gió mạnh và những đợt nước quất hất tung mũ trùm, làm áo nhựa hai người rách bươn. Mặc kệ tóc và áo ướt đẫm, Hoan và T. chẳng hề cảm thấy lạnh. Họ nắm chặt tay nhau băng qua đường, rẽ sang một phố khác. Mưa mỏng dần rồi ngớt hẳn. Họ dừng dưới một hiên nhà đầy dây leo, tháo áo mưa. T. vuốt khô nước trên gương mặt cô gái phơn phớt xanh lơ. Một hàng nước thắp đèn bán suốt đêm. Cả hai ghé đến uống cốc trà nóng, hít vào ngực mùi lá thơm nồng, hơi mưa thơm mát và cả hương vị những con cá khô treo dưới một cửa sổ tình cờ. Những vòm cây, mái nhà, mấy con người còn lại trên vỉa hè bỗng dưng như được phủ trong không gian tràn ngập niềm âu yếm thanh khiết, trong lành. Bỗng dưng Hoan biết, đấy chính là thời điểm hiếm hoi cuộc sống lượng thứ cho người ta vì những nếp nghĩ lãnh đạm và nhỏ nhen. Là hạnh phúc đến với người ta nhờ vào các cơ hội mong manh. Trong khoảnh khắc, thế giới đã biến hình… Khi T. đưa cô về trước khách sạn nhỏ, họ vẫn không nói thêm với nhau lời nào. Tới bây giờ T. mới nhận thấy cô gái đã đi với bộ áo mặc nhà, chân xỏ dép nhựa rộng. Cái áo ướt dính sát đôi vai mảnh mai. Niềm khao khát được ở lại bên cô, tha thiết. Nhưng đồng thời sợi dây dịu dàng vô hình ngăn anh lại. T. cúi hôn mái đầu đẹp, rồi bước đi. Hoan trông theo cho tới lúc anh khuất góc đường. Cô đưa tay kéo chuông. Ngưòi giữ khách sạn mở cửa, nhận xét chậm rãi: “Gần sáng rồi”.

Hoan tìm một cái vải mềm từ dưới đáy va li. Khi soi gương, dường như đã tan biến nữ phóng viên hốc hác sau chuyến công tác dài ngày. Tan mất theo ánh nhìn nghi hoặc của một kẻ tự bảo vệ. Thay vào đó, một người 24 tuổi trong nếp áo xanh lơ mỉm cười trong ra, mắt trong trẻo, tràn đầy sức sống. Cô xuống sảnh khách sạn. Người tiếp tân thoáng giật mình: “Là cô đấy ư?” “Vâng, có chuyện gì sao?” - Hoan ngạc nhiên. Ông ta lầm rầm điều gì bí mật khi nhác bóng T. hiện ra. Anh đưa cô đi trên chiếc xe Yamaha 125 hình như màu trắng, những ống giảm sóc han rỉ nghiến ken két. Mớ tóc dài và thẳng của anh ngược chiều gió, tô đậm cảm giác hạnh phúc trong Hoan. Đó là điều ít ỏi có thực sau này dính lại trong ký ức, còn tất cả tựa ảo giác. Đoạn dốc thoai thoải toả sáng dưới mặt trời. Bụi cây lác đác chen lẫn những cột đèn sắt bị hơi muối ăn mòn. Mặt đường êm êm phủ đầy bụi. Thành phố hoàn toàn xa cách với trận mưa dữ dội đêm qua. Bầu trời trống trải, đến mức người ta tin rằng hơi nóng phả lên từ biển đã biến những đám mây thành một bầy chim lông xanh bay đi. T. đưa cô ghé qua phòng thiết kế nơi anh làm việc. Những người ở đấy đối xử với cô thật dịu dàng. Họ ngờ Hoan là người T. vẫn nhắc đến, vẫn nói rằng khi nào giàu có sẽ lấy làm vợ. Cô cười. Anh chở cô băng qua khu chợ duy nhất trong thành phố. Không khí ồn ào náo nhiệu, các mùi vị nồng nặc ghê gớm giữa mấy dãy phố cổ lỗ hồ như không hề vây quanh hai người. Thi thoảng tay họ chạm khẽ nhau. Tiếng rao hàng bằng giọng địa phương ánh ỏi, các đèn lồng bạc màu bay phất phơ cũng làm họ bật cười. Tất cả những gì thật sướng vui, là niềm dịu dàng vô bờ bến. Xế trưa, họ dừng xe trên một bãi đá nóng, bên mấy cái ô lợp lá dừa khô. “Nếu thích, em cứ xuống tắm. Biển rất sạch!” - T. nhắc. Nhưng Hoan không thể. Chao ôi những điều đang xảy ra khác nào cơn mơ dị kỳ. Mà người ta chỉ có thể cất vào mắt, thở vào phổi, chứ không thể làm gì hơn. Vài người da trắng xuống, bơi ra xa. Ngồi sát bên T., Hoan im lìm, tâm trí rung lên câu hát về khoảnh khắc hạnh phúc tìm thấy. Mấy người ngoại quốc nghỉ hè cười thân thiện với hai người trẻ tuổi và đem cho cô gái nhánh rong mang lên từ biển. Chiều khá muộn, T. đưa Hoan từ biển trở về khách sạn. Người trung niên chừng như đã chờ cô rất lâu. Chẳng buồn nhìn T., ông ta thông báo cho cô về việc đường sắt đã hoạt động trở lại: “Tối nay tàu vào có một chuyến khởi hành. Cô đi chứ?”. Khi Hoan ngoảnh lại, T. đã lặng lẽ biến mất. Cô trả phòng quãng tám giờ tối. Ông tiếp tân, cũng là chủ khách sạn - đóng dấu giấy công lệnh cho cô. Hoan xách cái túi da ám bụi, đứng trước cổng khách sạn chờ đợi. Người trung niên gọi hộ một cái xe, nói giản dị và am hiểu: “Cô lên đi, kẻo mưa! Anh ta sẽ không đến nữa đâu”.

Những hồi còi rúc lên, đâm xuyên cơn mưa đêm dày đặc, Hoan áp trán vào những lưới sắt, tìm kiếm một bóng dáng thân thuộc. Nhưng không ai cả. Tàu chạy mỗi lúc một nhanh. Thành phố nhỏ mất hút phía sau. Những vệt lân tinh lấp lánh trên mặt biển nối tiếp. Bản nhạc Norwegian woods của Beatles rè rè trên loa trộn với tiếng mưa reo vang khi rơi xuống đất… Chuỗi hình ảnh và âm thanh cuối cùng ấy dội vào cô tựa ngón tay gõ mãi lên phím la thăng duy nhất, âm oang, tới một cường độ không chịu nổi nữa. Ngồi co ro góc cu-pê, giữa những hành khách, Hoan cố ngủ một giấc. Sáng ập đến sớm. Cô choàng dậy, phải rất lâu cô mới nhận ra mình đang trên đường trở về nhà. Cô đi dọc theo hành lang các toa tàu. Ngoài kia, mặt tròi oi bức, chói chang. Những đụn cát trắng bất tận. Tất cả hạnh phúc mới nguyên của hai ngày qua như được nung nóng rồi thăng hoa thành một vòm lá rực rõ. Niềm xúc động lớn lao vỡ trong lồng ngực. Cô nhắm chặt mắt để đừng trông thấy ánh sáng trắng nóng rực rỡ kia. “Có lẽ đúng. Anh ấy không cần gặp ta lần nữa…”. Hoan nói một mình. Đoàn tàu lên dốc, lại rúc còi, lắc lư. Cô trở về cu-pê chếnh choáng. Cho đến khi tàu vào thành phố, vẫn tràn ngập trong cô cảm giác chếnh choáng ấy.
Hoan thuộc những người cuối cùng bước xuống sân ga. Cô xốc túi hành lý, đi về cửa soát vé. Một ai đó chạm nhẹ lên vai cô. Dưng khựng, im lặng, cô không quay lại. “Em đã về!” - Mãi lâu sau tiếng Huân mới vọng đến. Hoan chầm chậm ngoảnh nhìn anh. Một nụ cười thăng bằng, bình thản nở trên gương mặt thân thuộc. “Hai hôm qua, chiều nào anh cũng ra ga đón em - Huân đỡ cái túi da ám bụi, khoác vai vợ sắp cưới - Em rám nắng nhiều đấy. Nhưng trông thật mạnh khỏe. Ở nhà buổi tối mưa nhiều ghê gớm…”. Thành phố rộng lớn, đông đúc. Hoan lặng thinh sau xe anh chạy chậm. Ở chỗ rẽ, mắt cô chợt thấy ánh mặt trời lấp loáng trên máng nước, vô số bông hoa to bằng ngón tay vừa nở, vàng tươi. Để ngăn một cơn khóc vô cớ, Hoan ngước lên bầu trời. Trời xanh như một bầy chim xanh đang bay.

Tuesday, April 22, 2008

Tường vi khô - Đỗ Quyên

Chi hay cười. Khi cười em hay nghiêng đầu sang phải một chút khiến người khác có cảm giác niềm vui thích của em không chỉ dâng qua khoé môi mà còn tràn ngập đôi mắt. Gương mặt em không có gì nổi trội, chỉ có vẻ tươi tắn khá dễ thương thường gặp ở những cô bé con được chăm sóc đủ đầy. Chi nói nhiều và hay kể chuyện, nhưng riêng với tôi thì em có đôi chút e dè. Tôi cũng chẳng thấy phiền. Nói thẳng ra là tôi cảm ơn em về cái sự yên tĩnh đặc biệt đó...

Tôi không thích Chi. Đúng hơn là tôi không muốn phí thời gian với em và những câu chuyện vui vẻ dài liên tu bất tận của em. Chi thích tôi, tôi biết. Nhưng tôi cũng biết một điều: em chắc chắn không phải nửa kia của tôi.

Nửa kia của tôi phải là một cô gái có một đôi mắt thật đẹp và buồn. Và, như người ta nói, ‘người thông minh như một dòng sông, càng sâu thì càng trầm lặng’, tôi muốn có một cô người yêu dịu dàng ít nói. Người tôi yêu có thể yếu đuối, hay khóc, đa sầu đa cảm ... Cô ấy cũng có thể gọi tôi vào mọi lúc mọi nơi, thậm chí tước đi tự do của tôi ... Tôi sẽ không ngại ngần gì trao cả cuộc đời vào tay cô ấy, nếu đó là người xứng đáng.

Một cô bé con như Chi, tôi chẳng muốn bận tâm.

...

Lớp Anh Văn buổi tối, nơi tôi quen Chi, đang ầm ĩ lên vì vụ tổ chức sinh nhật cho em. Trừ tôi ra, hết thảy mọi người đếu quý mến Chi. Tất nhiên, vì em là học viên giỏi nhất và cũng là người hoà đồng nhất. Một chút bất ngờ, họ nghĩ điều đó sẽ làm em hạnh phúc nhiều lắm. Tôi cười khẩy, chỉ cần tôi nắm tay một cái rất nhẹ thôi là đã đủ làm em hạnh phúc cả tuần rồi.

Chi toàn đến trễ. Buổi nào cũng vậy, cứ 15’ sau khi bắt đầu giờ học thì cả lớp lại đươc mẻ cười vì cái dáng Chi chạy băng băng xộc vào phòng học, mặt mũi lấm tấm mồ hôi... Chi cũng cười xoà với mọi người, đầu nghiêng nghiêng, mắt liếc về phía tôi rất khẽ. Thấy tôi quay đi, em xịu xuống, tìm chỗ ngồi.

Nhưng dù sao, em vẫn luôn đứng nhất.

Hôm nay Chi cũng đến trễ, thế nên mọi người mới có thời gian bố trí nào hoa nào quà nào bánh. Tôi thấy chán nản. Nếu biết trước hôm nay là sinh nhật em, tôi đã chẳng đi học. Bài tập ở trường đang chất đống trên bàn học chờ tôi về giải quyết, trong khi tôi lại ngồi đây, phí phạm thời gian vô ích với một đứa con gái mà mình không ưa. Ông thầy người Mỹ đứng cười cười nhìn đám học viên trang hoàng lớp học, tôi cá là lão cũng chẳng khó chịu gì: Chi là học trò cưng của lão. Một buổi học bị thay thế thành một buổi cực hình! Tôi xách balô biến thẳng.

Tránh vỏ dưa, gặp ngay vỏ dừa. Chẳng hiểu thế nào tôi lại đụng mặt Chi ở cổng trường. Em mừng rỡ bắt gặp ánh mắt ngơ ngác của tôi rồi tiến lại gần định bắt chuyện. Trán em ướt mồ hôi, gương mặt em lộ nét mệt mỏi. Tôi nghĩ một đứa con gái như em mà mang vẻ bề ngoài như vậy chỉ có thể là do chơi thể thao quá sức. Đứng trước mặt tôi, dường như em ít e dè hơn khi không có những học viên khác vây xung quanh.

- Anh Thuỵ trốn học à?

Em nháy mắt hỏi, kèm nụ-cười-nghiêng-đầu quen thuộc.

- Ừ, hôm nay anh mệt. Chi vô học đi, anh xin phép nghỉ rồi.

Một ý nghĩ bật lên trong đầu tôi, nếu Chi biết những gì mọi người đang chuẩn bị trong kia, chắc hẳn em sẽ đoán ra lý do trốn học của tôi. Em sẽ buồn. Những tình cảm dành cho tôi sẽ phải tan đi.

Nhưng, thay vì bỏ đi, Chi ngẩng cao đầu, nhìn sâu vào mắt tôi, hít một hơi dài, nói nhanh:

- Thực ra hôm nay là sinh nhật Chi đó! Chi có mang bánh kẹo chia cho mọi người nè! Nhưng giờ thấy anh Thuỵ không đi học chắc Chi cũng không thấy vui nữa đâu. Hay Chi nghỉ, đưa anh Thuỵ về nhà được không?

Tôi sững lại, nhìn vào đôi mắt lấp lánh của em, đôi gò má hồng lên khiến cho lòng mắt mang ánh nâu đỏ như hổ phách.

- Còn mọi người thì sao?

- Có ai biết hôm nay là sinh nhật Chi đâu! – em quả quyết.

- Chắc không? – tôi nhận ra giọng mình mất đi sự nóng nảy, hình như tôi đang muốn chơi trò gì đó.

- Chắc mà!

- Chi này, vậy ... mình đi dạo chút đi.

Hai viên hổ phách soi vào mắt tôi những nỗi ngạc nhiên nhiều cung bậc đang trộn lẫn vào nhau.

Tôi chớp mắt.

Chi gật đầu.

Nếu bệnh viện tâm thần có một phòng riêng dành cho những sinh viên đại học năm thứ tư, hẳn tôi sẽ vào đó an dưỡng nửa tháng.

Đã 11h đêm, tôi vừa về đến nhà. Cái balô đầy sách vở cứ đeo mãi trên lưng vì tôi chẳng thể nhận thức được mình nên làm gì và không nên làm gì nữa.

Tôi điên!

Tôi điên!

Ha, còn lý do nào khác không? Chỉ vì điên nên tôi mới rủ Chi đi dạo. Chỉ có điên nên tôi mới cùng em lang thang khắp nơi trên những vỉa hè dơ dáy mà tôi đã thề là chỉ đi xe để tránh không phải bước lên chúng. Tôi điên, cho nên tôi mới nuốt hết mớ chuyện em kể, những câu chuyện chẳng hề vui vẻ như em đã chia sẻ cùng đám bạn trong lớp. Điên, nên tôi mới đưa em về nhà. Vì điên, tôi mới đưa tay ngắt một nhành tường vi mọc leo trên bờ tường hàng xóm nhà em và bảo màu của đoá hoa giống màu má em...

Điên hơn nữa là tôi đã nói tôi thích em!

Và, điên nhất là tôi đã từng nghĩ em là một “cô bé con được chăm sóc đủ đầy”!

Chi mồ côi từ hè năm lớp 9, sau một lần ba mẹ em về quê gặp lũ. Chị gái em bằng tuổi tôi, đang là sinh viên năm ba một trường dân lập nào đó. Chi không nói nhiều nhưng qua những gì em kể, tôi nhận ra cuộc sống của hai chị em được duy trì tương đối êm ả là nhờ nguồn tài chính từ một người đàn ông mà chị gái của Chi hay đi cùng. Ông ta đóng mọi khoản học phí cho hai chị em. Chi đi dọn dẹp nhà cửa cho người ta sáu buổi một tuần, mỗi buổi từ 4h chiều đến 7h tối, hoàn lại cho người đàn ông kia tiền học ở trường. Còn trung tâm ngoại ngữ, em luôn cố đứng nhất để nhận học bổng là chính số tiền ông kia đã đóng để em vào học. Chi kể, với nụ cười nghiêng – nhưng ở góc độ tôi nhìn hôm nay, nụ cười ấy buồn đến thắt lòng, mỗi lần em đưa trả tiền cho ông ta, chị gái em lại thở dài. Chị em trượt năm đầu do hai cái đại tang cùng lúc, năm sau đậu trường dân lập với số điểm thấp đến sát mức sàn do suốt thời gian ôn thi phải đi phụ bán cà phê lo tiền ăn học cho Chi. Thế rồi người đàn ông ấy xuất hiện, cuộc sống ổn định lại nhưng việc học của chị gái Chi ngày càng sóng gió. Liên tục thi lại, rồi nợ hết môn này đến môn kia, c
hị Chi chẳng buồn để tâm đến học hành nữa. Chi bảo, Linh - tên chị Chi, đang cố tìm một việc làm nào đó ổn định để tự trang trải cuộc sống, thoát khỏi gã đàn ông kia.

Lúc tôi đưa Chi về, Linh ra mở cửa. Tôi đứng sững. Nhìn họ chẳng giống hai chị em là bao. Linh để tóc tém ôm sát gương mặt trắng xanh, mắt đen huyền hơi bị khuất bởi hàng mi cong dài, nụ cười hiền lành như được vẽ ra sau màn sương nỗi buồn lộng lẫy. Chi đến bên cạnh chị mình, em cao hơn Linh độ năm phân nhưng có điều gì đó ở Linh khiến tôi nghĩ nàng đang bay lơ lửng phía trên cao, bên cạnh vầng trăng lưỡi liềm cuối tháng, khiến mọi ánh sáng xung quanh tôi như bị che phủ và tôi phải ngước lên mới thấy được Linh đang toả sáng cùng trăng.

Chi chào tôi, tay em vuốt ve nhành tường vi nhà hàng xóm mà trước đó tôi đã ngắt xuống cho em, nụ cười nghiêng đỏ hồng như màu của đoá hoa. Linh gật đầu thờ ơ. Cánh cổng đóng lại. Ánh sáng trăng lạnh lẽo tắt ngóm trong đêm.

Trời đất! Có lẽ tôi vừa tìm thấy một nửa của mình, ngay sau khi tỏ tình với em gái của cô ấy!

Sáng hôm sau, tôi viện cớ đến đưa Chi đi học để đến đó lần nữa. Người mở cửa vẫn là Linh, nàng có vẻ ngạc nhiên khi lại thấy tôi chỉ 8 tiếng sau lần gặp đầu tiên. Tôi vui mừng khi thấy Linh nhìn tôi, nàng nhìn rất lâu, ánh mắt dò hỏi. Tôi vờ như đang đưa mắt tìm Chi. Chi cũng bất ngờ khi thấy tôi, em cuống cuồng sửa soạn cặp sách. Chân tay luýnh quýnh thế nào vấp phải cái ghế ngã lăn ra. Tôi bật cười. Chi cười. Linh cũng cười. Tiếng cười của nàng trong và nhẹ như gió thoảng, Tôi bất giác quay sang Linh, định nói gì đấy về sự ‘ngộ nghĩnh đáng yêu’ của Chi, nhưng đội mắt buồn của nàng chặn họng tôi lại. Tôi như bị hút vào vẻ đẹp ấy, quên đi mất Chi đang quỳ đứng dậy, hai cánh tay bầm tím trầy xước.

...

Tôi nhớ, như một bợm rượu đang cố hồi tưởng lại những gì mình đã thấy trong cơn say, hình ảnh một nhành tường vi treo hờ hững trên cửa sổ nhà Chi, và đôi mắt Chi sẫm lại, đục ngầu khi bắt gặp ánh nhìn mơ màng của tôi.

Tôi đành nói thật. Tất cả.

...

- Chi này, cho anh xin lỗi chuyện hôm qua, và cả chuyện sáng nay nữa, được không?

- Ý anh Thuỵ là anh Thuỵ chỉ đang đùa giỡn Chi thôi?

- Anh xin lỗi. Chi hãy coi như chưa có gì xảy ra, hãy coi như anh là một thằng tồi dám trêu ghẹo Chi vậy, được không?

- Nhưng người yêu tương lai của chị Linh không được phép là một thằng tồi!

Chi nói, gần như nức nở. Nhưng đôi mắt em ráo hoảnh, nhìn chằm chặp vào tôi. Tuyệt nhiên không có dầu hiệu của bất kỳ cảm xúc nào hiện lên trong đôi mắt đó. Chi, đứng trước mặt tôi, lạnh lùng, vô cảm. Tôi lúng lúng, sững sờ trước em. Làm sao em biết tôi có cảm tình với Linh? Chi nở nụ cười, không có gì nghiêng đi trong mắt.

- Chỉ cần nhớ, Chi đã tin anh Thuỵ.

Tôi nhíu mày không hiểu. Nhưng một đám con gái đã nhìn thấy Chi, ríu rít ầm lên. Rõ ràng Chi không chỉ được yêu mến riêng ở lớp học buổi tối. Em quay lại nhìn tôi lần cuối, vẫn vẻ vô cảm, môi em mấp máy:

- Chi đã tin vào lời nói dối đó, dù Chi luôn biết đó là một lời nói dối.

Rồi em đi thẳng vào trường, với đám bạn vây quanh, cười nói.

...

Hai năm sau đó, tôi chính thức yêu Linh, người đàn ông ‘bao’ Linh lúc trước chẳng làm hại gì, khi nghe tôi nói tôi yêu Linh và có thể chăm sóc được cho nàng, ông ta rút lui.

Tôi và Linh cũng có việc làm. Hai đứa mở chung một tiệm trà sữa, sau đó mở thêm một cửa hàng bán hoa tươi. Vốn liếng một phần là của gia đình tôi, một phần là tiền tiết kiệm của cả tôi và Linh gộp lại. Nói là hai đứa làm chung, nhưng thực ra Linh chẳng biết gì nhiều, tôi thì bận học lên thạc sỹ, mấy công việc kinh doanh lại chẳng phải chuyên ngành của tôi, nên cuối cùng để mặc một tay Chi xoay xở.

Chi vừa học vừa làm nhưng công việc vẫn tiến triển tốt đẹp, chỉ việc học của em là sa sút đôi chút, em phải bỏ nhiều lớp học thêm và thôi không đứng đầu lớp nữa. Em cũng chẳng còn là cô bé con vụng về chậm chạp ngày nào. Nụ cười nghiêng của em đã biến mất từ lâu lắm. Gò má em vẫn hồng nhưng không bao giờ tôi thấy lại ánh lấp lánh như hổ phách trong mắt em nữa. Niềm vui của em chẳng bao giờ dâng lên quá khoé môi.

Nhưng Chi vẫn cứ hay cười, khác với Linh chỉ ngồi thu mình vào góc quầy thu ngân, đọc tiểu thuyết diễm tình rồi khóc.

Ban đầu tôi còn ôm lấy Linh an ủi, về sau tôi đành để Linh một mình, vì dù tôi có an ủi đi chăng nữa thì ánh buồn vẫn cứ sóng sánh trong đôi mắt nàng. Trăng không bao giờ sáng vào ban ngày, và Linh cũng chẳng bao giờ tươi vui. Tôi nghĩ đôi mắt đẹp của nàng không bao giờ cười tươi như đôi mắt vô cảm của Chi đã từng cười.

Nhưng tôi nghĩ tôi yêu Linh, xa nàng là tôi lại thấy chông chênh, dù không biết cảm giác đó là do tôi nhớ nàng hay là do tôi sợ nàng nhớ tôi mà buồn, khóc. Quả thật tình yêu phức tạp hơn tôi tưởng nhiều. Tìm được ‘một nửa’ rồi mà sao tôi chẳng thấy hạnh phúc? Đầu óc chỉ toàn những suy nghĩ vẩn vơ. Đôi khi tôi thấy Linh chẳng hề yêu mình, nhưng rồi khi nghe bàn tay nàng níu chặt và ánh mắt long lanh, tôi không muốn nghĩ đến cái giả thuyết đó nữa. Linh yêu tôi.

Để tôi nhấn mạnh: Linh yêu tôi.

Và tôi bắt đầu hiểu ra cái cảm giác của Chi ngày hôm ấy, cái cảm giác ép mình tin vào một lời nói dối – ép chính mình chứ không phải bất kỳ ai khác, tin vào một lời nói dối. Bởi vì lời nói dối đó quá đẹp. Quá đỗi đẹp!

Linh không yêu tôi, Linh chỉ yêu bản thân Linh thôi. Linh có thể hy sinh nhiều thứ, nhưng đừng bao giờ đòi hỏi Linh làm điều đó với cái lý tưởng cao đẹp của Linh. Linh có thể chết, nhưng không bao giờ tự tay bóp chết nỗi buồn trong Linh. Nàng sống nhờ những ngày tăm tối, bóng đêm, nước mắt và đau khổ.

Vì thế, tôi quyết định chia tay.

Linh cắt tĩnh mạch ở cổ tay tự vẫn. Nhưng Chi kịp đưa Linh đến bệnh viện, trông nàng xanh tái đi trong phòng cấp cứu. Chi vẫn bình tĩnh trấn an chị. Bước ra khỏi phòng cấp cứu, em tỏ vẻ mệt mỏi. Nhìn thấy tôi, em gật đầu, ý nói mọi chuyện đều ổn.

Khốn nạn! Nhưng nếu được lựa chọn lại, tôi sẽ chọn Chi để yêu, yêu thật sự ấy! Tình cảm của tôi dành cho em đã không ngừng tăng lên suốt thời gian qua, mỗi lần em ngồi cạnh tôi để bàn chuyện buôn bán, nào là mở thêm tiệm, tuyển thêm người ,,, đôi khi em để vuột ra một tiếng thở dài nặng nhọc, nhưng nhanh miệng chữa ngay đó l
à do em lo lắng thông thường thôi; tôi lại thấy xót xa. Không phải kiểu xót xa khi thấy Linh tự hành xác, mà là đâu đó trong trái tim tôi cứ thót lên, đập uỳnh uỳnh vào lý trí: “Này thằng ngu! Nắm lấy tay cô ấy đi! Ôm cô ấy đi! Chăm sóc cô ấy đi! Cô ấy làm tất cả những việc này là vì mày đấy!”

Lúc này đây, Chi cũng buồn, trán nhăn lại, ánh nhìn xa xăm. Tôi ngồi xuống bên cạnh em trên ghế đá bệnh viện, bỗng nhiên thốt lên một câu ngu ngốc:

- Linh đâu làm thế vì anh, đúng không?

Chi nhìn tôi, đôi mắt sẫm tím, tôi không thể biết được em đang nghĩ gì.. Cuối cùng, em nặng nhọc đáp:

- Vì chị Linh bế tắc, không phải vì anh Thụy đâu!

- Này Chi ...

- Sao anh?

Tôi ấp úng một lúc, rồi nói nhanh, cố sức để câu chữ không dính vào nhau:

- Cách đây ba năm ... Buổi tối hôm ấy .... Anh đã nói gì, Chi còn nhớ không?

- Anh Thụy nói anh Thụy thích Chi. – em gật đầu thản nhiên.

- Chi đã nói Chi tin anh?

- Tin chứ!

- Còn bây giờ thì sao?

- Lòng tin chân chính không thay đổi theo thời gian.

- Chi à?

Em quay lại nhìn tôi, khoảng cách giữa tôi và em còn gần hơn cả buổi tối hôm ấy, khi tôi ngắt cho em nhành tường vi trên bức tường nhà hàng xóm của em...

Cái nhìn của em khiến tôi nín bặt. Em ngoảnh mặt đi, cúi xuống, tìm gì đó trong ba lô đầy sách vở. Rồi, lâu rất lâu sau đó, em nắm lấy tay tôi, lật ngửa lòng bàn tay ra, đặt vào đó một nhành hoa khô quắt.

- Nhành tường vi hôm đó.

Tôi choáng váng, thấy cổ họng mình khô đắng. Chi chỉ gật đầu, em vẫn nhìn xa xăm.

- Tình cảm Chi dành cho anh Thụy như nhành hoa này: không bao giờ tàn được nữa, nhưng cũng không bao giờ nở ra được nữa.

Em nhìn tôi đăm đăm, trút tiềng thở dài cuối cùng rồi thoăn thoắt bước vào phòng cấp cứu lấy cho Linh cốc nước mát.

Lặng người, tôi nhận ra những đóa hoa khô màu nâu tím sẫm giống hệt màu mắt em.

Vô cảm.

Friday, April 18, 2008

Khăn len đỏ trên cành mùa đông - Lâm Hân

Giống như con gấu, kẻ thù của tôi gầy đi nhưng cao lên vào mùa đông. Mỗi khi bước ra đường, tôi nháo nhác nhìn quanh, luôn đánh hơi kẻ thù rình rập đâu đây và nó sắp sửa biến tôi thành mồi săn thảm hại. Hiếm khi tôi thoát khỏi tay Lâm. Tôi chấp nhận mọi thương tích, miễn sao sách nhạc và hộp đựng đàn nguyên vẹn. Đó là tài sản lớn nhất, quý giá nhất mà bố tôi còn giữ được sau bao nhiêu biến động cuộc sống. Điều này thì tôi biết rõ, dù khi ấy mới chỉ là con nhóc lớp ba, 8 tuổi.

Nỗi sợ hãi đã trở thành một phần trong cuộc sống của tôi. Không giống bọn nhóc hung dữ láo lếu bên xóm chợ, thằng Lâm có vẻ ngoài của đứa trẻ được nuôi dạy trong gia đình tử tế, khá giả nữa là khác. Nó mặc quần áo đẹp đẽ, đắt tiền, có người đưa tới trường bằng xe máy. Nó học rất giỏi. Trong lớp, nó sượt qua chỗ tôi như đi qua một cục gạch. Tuy nhiên, vừa tót khỏi cổng trường, lập tức Lâm biến thành hung thần. Nó nhảy xổ vào tôi, giằng tóc, hoặc đạp lên chân tôi rõ đau. Vô số lần tôi về nhà trong bộ dạng rách mướp. Bố tôi thấy tất cả. Nhưng không bao giờ ông hỏi han hay có động tác vỗ về chăm sóc. Ông để tôi lo liệu một mình. Bố là người hơi kỳ lạ. Cho tới bây giờ tôi vẫn tin chắc điều ấy.

Đợt cuối đông. Những cái cây cất đầy hơi lạnh trong vòm lá. Mưa li ti. Tiếng gió hú lên khi xuyên qua những mái nhà xiêu vẹo dọc dải đường hẹp. Tôi học nhạc buổi chiều. Trong áo khác cũ của bố dài lượt thượt, khăn len đỏ cũng của bố trùm kín mít, tôi tin chắc mình an toàn. Chạy lúp xúp ra bến đón xe lam, tôi nháo nhác ngó quanh và càng hớn hở, yên tâm với việc nguỵ trang tài ba. Chiếc xe lam sọc vàng hiện ra ở khúc quanh. Và hiện ra cùng nó là thằng Lâm, ngay trước mũi tôi, như một bóng ma. Ngó tôi lom lom, chẳng nói chẳng rằng, nó tóm lấy một đầu khăn, giật mạnh. Trước bộ dạng con mồi hoảng hốt, chừng như ý định "tàn bạo" của kẻ thù xẹp xuống. Nó chỉ quăng chiếc khen len lên trời. Mảnh khăn đỏ mắc trên cây, phất phơ trong gió như một lá cờ sợ hãi và ngơ ngác. Bố tôi mất chiếc khăn. Thi thoảng ông ho khúc khắc khúc khắc. Tôi rất sợ bố hỏi khăn len đỏ đâu. Nhưng ông coi việc mất chiếc khăn là việc rất nhỏ. Như ông từng chấp nhận mất đi nhiều thứ trong đời.

Việc học đàn trở nên tồi tệ. Tôi hay đi học muộn. Có ngày quyển sách nhạc quý giá rách toạc khiến cô giáo vừa tỉ mẩn dán lại, vừa trách móc tôi tội phá phách. Giống như bố, tôi cố gắng chịu đựng. Nhưng hôm thằng Lâm cạy ổ khoá sắp sửa lôi cây violin khỏi hộp thì tôi lao thẳng vào nó. Nhỏ con hơn, yếu ớt hơn, tôi nhe răng cắn một phát rõ to trên cổ thằng Lâm. Nó gào toáng, quai tay đấm ngược bụng tôi. Cả hai ré inh ỏi như cánh rừng đầy khỉ. Bụi tung mù mịt. Lăn lông lốc tựa hai con gấu hiếu chiến, tôi và đối thủ bấu chặt tóc nhau. Cho tới khi người lớn phát hiện, gỡ ra thì cả hai đã "tan nát". Tôi nhặt nhạnh sách vở, xếp đàn vào hộp, lếch thếch trở về nhà.

Trở về nhà, quần áo tôi tả tơi, đôi giày mới bị dẫm bẹp. Gương mặt trong gương là phần cuối cùng kinh khủng: Vầng trán trắng nhợt, hai chiếc răng thỏ lung lay chìa ra ngoài đôi môi sưng vều. Tôi tự rửa mặt, đắp muối lên các vết thương, băng ngón tay sứt sẹo. Tới chiều thì cơn sốt ập đến. Tôi nằm lọt thỏm trong ghế dài, run lập cập. Lúc bố mang tôi vào bệnh viện, tôi chỉ thấy ông như chiếc bóng xanh mờ.

Thời gian bình phục của tôi kéo dài. Không phải thương tích mà thiếu thốn lâu ngày khiến sức khoẻ tôi cạn kiệt. Bố ngồi cạnh tôi, ít nói, loay hoay chỉnh âm thanh cây violin cũ kỹ. Tôi lắng nghe đoạn nhạc ngắn toả ra dưới bàn tay người chơi đàn điêu luyện. Sắp hết lạnh rồi. Ngoài cửa, nắng hưng hửng. Vô số mầm lá đỏ hoe trên những thân cây bạc trắng. Tức là sắp Tết .. Tôi quyết định bộc lộ với bố điều nung nấu từ lâu: Bằng mọi giá, tôi sẽ "tiêu diệt" thằng Lâm! Không nói gì, nhưng tối hôm ấy, bố mang tôi tới chương trình biểu diễn cuối năm của dàn nhạc giao hưởng, nơi ông là bè trưởng khá nổi tiếng. Dưới ánh sáng sân khấu xanh thẳm, bố tôi biến thành người khác. Nỗi cô độc từ khi mẹ tôi chia tay sang sống bên Nga, sự thiếu thốn hai cha con đương đầu bằng cả lạc quan hài hước, niềm yêu thương bố dành cho tôi bỗng chốc thoát khỏi nơi cất giấu sâu kín, hoá thành chuỗi âm thanh ngọt ngào, mới mẻ, như làn nước tốt lành ùa về, đánh thức tiếng chim hót, đánh thức các bông hoa trên đồng. Tôi quên bẵng nỗi khốn khổ, niềm căm thù cay đắng của mình. Hệt như ngôi sao thần kỳ vụt quét vệt sáng rực rỡ qua đầu tôi.

Mỗi khi đặt cây violin quý giá của bố lên vai, tôi lại bắt gặp những gương mặt thời thơ ấu xa xăm. "Kẻ thù" giờ đây thành người đàn ông cao lớn, gầy gò. Cuộc sống anh ta không hạnh phúc. Lâm có đứa con gái nhỏ. Khi nào nó cứng cáp hơn, anh ta sẽ gửi nó cho tôi dạy đàn - Có lần Lâm nói với tôi như thế. Tôi gật đầu. Tôi vẫn sống ở bên cạnh bố tôi. Thỉnh thoảng, tôi tập lại chương Mùa Xuân trong tổ khúc Bốn Mùa của Vivaldi mà hai bố con yêu thích, thấy lòng mình bình yên lạ. Tôi vẫn nghĩ những cầm thủ lớn như mảnh đất lạ, biết cất giữ mọi cỗi cằn vất vả các mùa khác, đợi mùa Xuân mới cất lên tiếng nói lạ lùng.

Saturday, April 12, 2008

Vé đêm Jazz - Nhiên Phan

Trích

“Trên đời này, có một số ít người thật đặc biệt. Họ cất giữ mối dây hạnh phúc của bạn. Họ gợi lên trong bạn bao nhiêu ký ức tốt lành. Một cách mơ hồ, bạn biết, phía sau vẻ bình thường và vụng dại kia, chính là bí mật của những gì mà bạn muốn tìm kiếm: Lòng tốt sáng trong, tình cảm nhiệt thành, niềm vui sống dịu dàng, vô bờ bến. Bạn yêu quý người ấy, nhưng bạn chỉ dám dõi theo từ xa thôi.”

—————–

Hoan - Lạc đà cô độc

11 giờ đêm. Xe bus chuyến chót của ngày vào trạm. Vị khách cuối cùng bị tống cổ khỏi cửa xe. Tôi lếch thếch đi bộ xuyên qua đoạn đường vắng ngắt dài dằng dặc. Trên cao, giữa các vòm cây cổ thụ sẫm đen, đèn cao áp hắt xuống từng luồng sáng lạnh lẽo vô cảm.
Tôi co ro hai tray trước ngực, lạnh gáy. Trùm jacket lên đầu, tôi guồng chân chạy. Nhưng cũng chỉ được non nửa đường. Sau một ngày chìm lỉm trong công việc, sáng nghe lịch sử nghệ thuật trên giảng đường, chiều vẽ trang trí tại lớp, tối làm âm thanh ánh sáng ở quán bar, sức lực hoàn toàn rời bỏ tôi. Vừa lết chân uể oải, tôi vừa thở dốc như một con lạc đà ngu ngốc. Tôi vừa nói gì nhỉ? À, đúng, tôi rất giống loài lạc đà: Đôi mắt to quá khổ trên gương mặt nhỏ thó, mái tóc ngắn bù xù hơi ngật ra phía sau trên cái cổ còm nhom. Để che giấu cánh tay và đôi chân gầy kheo khư, trang phục quen của tôi là chemise lùng thùng, quần jeans dày cộp, bạc phếch ở mông và đầu gối. Mặc dù là cô gái 20, nhưng tôi chẳng hề ảo tướng sức hấp dẫn của mình. Tôi đãng trí, óc hài hước đi vắng. Do quá nhút nhát, mỗi khi hiện diện giữa chốn đông người, hoặc im lặng, hoặc tôi sẽ phun ra vài câu nói ngớ ngẩn làm đám đông im lặng đi vì ngạc nhiên, rồi sau đó học sẽ cười rộ lên như một cánh rừng đầy khỉ. Dù gượng nhẹ với kẻ kém cỏi, người nhà vẫn nhận xét về tôi một cách buồn rầu: “Ngày nào đó, nếu một chàng trai để mắt đến nhỏ Hoan, tất cả chó mèo trong thành phố sẽ mặc quần đùi!”. Hồi đầu năm học thình lình xảy ra một chuyện bất thường. Ồ, chưa có chàng trai nào để ý đến tôi hết ráo. Mà tôi chính là tôi đã để mắt tới một chàng trai.
Đó là buổi sáng mưa lạnh, tôi đến trường sớm. Ngoài sân trời âm u. Sau khi chuẩn bị giá vẽ, tôi ngồi co ro giữa những cuộn giấy trong góc lớp, ngủ thiếp đi. Trong giấc ngủ bồng bềnh, bỗng tôi ngỡ như mình đang gối đầu lên đám mây xốp mềm, êm ái. Một đám mây phảng phất mùi thơm dìu dịu của gỗ và cỏ. Đám mây chạm phớt qua trán tôi, như một ngón tay ấm áp. Tất nhiên là dù ngủ mơ, tôi vẫn quờ tay, giữ đám mây thần kỳ ở lại bên mình. Vẳng đến tai tôi tiếng cười trầm khẽ. Mở choàng mắt. Đông đang cúi xuống bên tôi. Gương mặt cậu ấy rất gần, đến mức tôi có thể thấy rõ mấy đốm sáng trong đôi mắt nâu nhạt. Học cùng lớp đến gần hai năm, thú thật chưa bao giờ tôi đứng gần Đông quá 2 mét. Biết nói thế nào nhỉ, uh, huh, cậu ta thuộc về thế giới hoàn toàn khác biệt. Một thế giới của những người hoàn hảo, nụ cười hạnh phúc luôn nở rộng trên hàm răng trắng bóng, mặc quần áo đắt tiền, đi xe cộ lạ lẫm, trong đầu luôn có những vô số bí mật thú vị. Và xung quanh cậu ấy, cơ man các cô nàng thật xinh tươi… Đôi khi, tôi nhìn trộm cậu ấy từ xa, mơ mộng chút ít. Chẳng ai biết tôi đang nghĩ gì đâu. Một đôi lần, Đông bắt gặp mắt tôi. Cậu ta quay đầu, đổi nhìn sang hướng khác ngay. Thế mà lúc này, Đông lại quỳ, bàn tay ân cần đang kê cho tôi gối đầu trên chiếc áo khoác thơm và ấm.
Hoảng hốt, tôi ngồi chồm dậy, chộp cái áo, đưa trả cho Đông. Cậu ấy mỉm cười, chẳng nói gì. Khi đã hoàn hồn tôi chợt nhận ra trong phòng học còn một người nữa. Huy, Anh ta mới theo gia đình từ nước ngoài về, theo học dạng dự thính. Huy lạnh lùng và xa cách đến mức hồi đầu, tôi ngỡ anh ta quên béng tiếng Việt. Anh ta hay đi cùng Đông, hoặc ngồi một mình, chăm chú với cái ebook. Ngay cả lúc này anh ta cũng chẳng chú ý đến tôi mảy may. Nhưng kệ kẻ xa lạ ấy. Hít một hơi dài, tôi bối rối nhìn Đông vẫn đứng trước mặt tôi, hỏi ngô nghê: “Có việc gì nữa không?”. Đôi mắt nâu nhạt lấp lánh: “À… Đông đang muốn nhờ Hoan một việc nhỏ. Nhưng mà thôi…”. “Việc gì thế, Đông nói đi. Hoan làm ngay!” - Tôi kêu lên. Cậu ấy đang kiếm cặp vé xem nhóm Jazz Hà Lan diễn ở nhạc viện vào cuối tháng. Vé cực hiếm. Chỉ dân trong nghề mới có cửa đến xem chương trình này mà thôi. Nhưng tôi đoan chắc với Đông, thế nào tôi cũng tìm được cặp vé quý giá ấy.
Chơi piano chủ lực trong quán bar tôi làm việc là sinh viên năm cuối nhạc viện. Một mẫu người táo vát và rành mạch như cỗ máy đếm tiền. Chị ta cho biết đừng mơ xin vé mời. Muốn có thì mua lại giá cao. “Bao nhiêu hả chị?” - Tôi nuốt nước bọt. “500 ngàn!”. Bằng một tháng lương làm việc ở quán. Tôi quyết định nhanh: “Em sẽ lấy một cặp!”. Chị ta thản nhiên: “Okay, vậy đưa một triệu!”. Tôi im sững. Pianist dường như bắt được ta bàng hoàng trong tôi, mỉm cười trấn an: “Một cặp vé đi với người yêu, không bao giờ là quá đắt, phải không?”. Có lẽ vậy. Được nghe Jazz hiện đại, thứ nhạc tôi yêu thích nhất. Rồi đi cùng Đông. Hệt như một giấc mơ. Tôi gật đầu: “Ngày mai, chị ký luôn tháng lương của em nhé. Em đưa luôn chiếc xe đạp leo núi mới mua. Nó trị giá đúng 500 ngàn!”. Cỗ máy tính tiền mỉm cười: “Em di chuyển bằng gì, nếu không có xe đạp nữa?”. “Em đi xe bus!”. “Chàng trai được đi cùng em nếu không biết được giá trị tấm vé, và không biết giá trị của em, đó chỉ là gã vứt đi!”. Tôi nín thinh, hơi rụt cổ. Vì là một con lạc đà ngốc nghếch tôi không biết nói sao trước nhận xét kỳ lạ ấy.
… Gần đoạn về nhà. Dù mệt mỏi, bên trong tôi nở nụ cười rạng rỡ. Đôi vé ước mơ nằm trong túi áo khoác. Mai, tôi sẽ đứng trước Đông, tự nhiên và bình thản nhất, nói về hai chiếc vé đã có. Cậu ấy lặng đi mất thôi. Cậu ấy sẽ mời tôi đi cùng. Tôi sẽ mặc gì cho đúng kiểu nhỉ? Cái váy dài xám khói và áo len ngắn hồng tro. Tôi có nên tô chút son không? Chao ôi, tôi chẳng dám nghĩ xa hơn… Có âm thanh n
hè nhẹ từ đâu đó. Một vệt đèn xe lướt qua rồi mất hút. Vệt sáng không đẩy dạt bóng tối, mà chỉ làm màn đêm căng mọng hơn. Vài bóng cây đen sẫm, dài bất tận. Gió rầm rì luồn trong cỏ dại, âm thanh khuếch đại lên nắp cống. Tốt nhất không nên ngoảnh phía sau. Tôi bước men theo vỉa hè, lắng nghe cảm giác hy vọng bí mật. Đột nhiên, đôi chân tôi đá lên thật nhẹ nhàng. Điệu nhảy ngẫu hứng, bất thần nở ra trong tôi nhịp điệu trần đầy hạnh phúc. Dù chỉ là một mình thôi.

Đông - Đừng nhìn vào mắt lạc đà

Bỏ quách hai tiết đầu, tôi ngồi caffee khuất sau góc hành lang. Khung cảnh yên tĩnh. Nắng xuyên qua các ô gạch. Tôi đang đọc Nắng tháng tám của Faulkner, bản tiếng Anh. Từ dạo đánh bạn với Huy, tôi bất đầu mượn vài quyển trong tủ sách khổng lồ của cậu ta tha về từ khắp nơi, đọc thử. Vài quyển khó nhằn. Nhưng quyển này thì thật tuyệt. Những trang sách gợi lên cảm giác hoang dã, bất chấp, bị ám ảnh, đầy khả nghi về những mưu mẹo của chính mình. Mấy điều đó thật gần với con người tôi.
Đôi khi, tôi cũng hơi chán ngán cuộc sống. Ba má tôi bận kinh doanh nên thu xếp, đặt tôi vào hoàn cảnh tốt đẹp nhất. Mọi thứ đến với tôi dễ dàng. Từ việc học hành, bạn bè, cho đến những cô gái. Chưa bao giờ tôi có ý định gắn bó lâu dài với bất cứ điều gì. Chiếc xe máy dù hài lòng đến mấy, khi chán, tôi bán phứt, tậu cái khác hay hơn. Vài tháng một lần, tôi đổi số mobile. Những cô gái ngốc nghếch hết chỗ nói. Họ luôn tin rằng tôi cần mọc ra trách nhiệm với họ. Mà trách nhiệm là gì? Là những cuộc trò chuyện lê thê vào cuối mỗi tối. Là chờ đợi đón đưa sau giờ học. Chậc, tôi có thể mời một nàng đi chơi, tiêu tốn kha khá cho vài món quà, nhưng xâm hại tự do của tôi thì đừng hòng. Tuy nhiên, tôi càng tỏ ra phớt lạnh, các cô gái lại càng bủa vây nhiều hơn. Biết sao được, trong chuyện này, tôi chẳng hề cố ý. Tuy vậy, phải đến khi Hoan, cô nàng mờ nhạt nhất khoa Thiết kế, tình cờ để lộ ra cô ấy cũng lưu tâm tôi, thì tình thế thật sự khôi hài. Bỗng dưng, tôi muốn dựng lên một trò đùa, thật điên rồ.
Tôi vẫn nhớ buổi sáng mưa hôm đó, Huy chở tôi đến trường bằng xe hơi nhà cậu ta. Cậu bạn này không thể hiểu được. Vẻ ngoài của Huy giản dị, không mảy may phô trương. Chẳng hạn chốc nữa, cậu ta sẽ kiếm bãi gửi xe cách trường hàng trăm mét, chứ không đánh xe vào giữa sân như vài thằng điên ti toe. Nhưng, những gì cậu ta biết, cách cậu ta nghĩ luôn khiến tôi giật mình. Một dạng người thông minh đáng sợ. Nghe tôi ba hoa tình cảm “thầm kín” Hoan hướng về tôi, cậu ta cau mày khó chịu: “Cô bé ấy không phải túyp dành cho cậu đâu!”. Tôi cười phá lên: “Chỉ cần tớ nhìn vào mắt, cô nàng sẽ tan ra như miếng fromage ném vào chảo nóng!”. Huy đạp thắng gấp, khiến tôi suýt nhào về phía trước. Rồi xe lại lân bánh êm ái trên đường.
Vào lớp thật ngẫu nhiên, tôi và Huy bắt gặp cô nàng lạc đà ngủ gật trong góc phòng vẽ. Bộ dạng Hoan y hệt đứa bé thơ ngây, nhưng cũng thật giống một kẻ kiệt sức vì làm việc quá tải. Huy cởi áo khoác, xếp vuống vức, đặt nhẹ dưới đầu lạc đà. Thật ngộ nghĩnh, cô nàng mỉm cười trong mơ, cánh mũi trắng bé xíu hít thở nhè nhẹ. Chấm tay vào hộp pastel đó để quên, tôi lại gần định quyệt mấy vệt râu trên mặt Hoan. Bất thần, cô nàng choàng dậy. Tôi giấu vội bần tay. Tưởng áo khoác của tôi, Hoan trả lại, mặt đỏ ửng. Tôi liến thoắng về cặp vé Jazz vớ vẩn, nhờ lạc đà tìm giúp. Cô nàng sập bẫy tức khắc. Chứng kiến tất cả những điều ấy, Huy hoàn toàn im lặng.
… Đã đến giờ giải lao. Những chỗ ngồi trong quán đông dần. Một cái bóng rụt rè đổ xuống trang sách. Hoan đứng trước mặt tôi, bối rối vặn ngón tay.
- Có việc gì không, lạc… à Hoan? - Suýt nữa thì tôi buột miệng.
- Đã có vé nghe Jazz Hà Lan tối nay! - Hoan nói khẽ, đưa ra chiếc vé nhỏ
- À được đấy! - Tôi đưa tay cầm vé hờ hững , nhìn lướt qua, hỏi cho có chuyện - Kiếm vé mời khó không?
- Cũng không khó lắm… - Hoan thì thầm, như muốn nói gì thêm.
- Cảm ơn nhé. Tôi sẽ hỏi xem ai thích nghe Jazz, tối nay rủ đi cùng kẻo uổng vé mời - Tôi nói nhanh, chấm dứt câu chuyện vô vị.
Trong khoảng khắc ngắn, đôi mắt to tướng của Hoan nhìn thẳng vào mắt tôi, chết sững, rồi hóa thành hai tấm kính lớn chao đảo dữ dội. Chà đừng bao giờ nhìn mắt những cô nàng ngốc nghếch. Sẽ rất khó chịu. Tôi thoát ra khỏi cảm giác khổ sở đó bằng cách quay trở lại quyển sách đọc dở. Huy cầm cái ebook đi ngang qua, không dừng lại. Bóng cậu ta khuất ngay giữa nắng.

Huy - Nụ hôn trên trán lạc đà

Suốt buổi chiều, tôi không sao tập trung vào bản thiết kế trên máy Mac. Tôi nhìn lên trần nhà, nghĩ về lạc đà bé bỏng. Thật kỳ dị, mỗi khi hình dung gương mặt Hoan, rồi dáng vẻ ngây thơ vụng về của cô, tôi xúc động thắt tim. Trên đời này, có một số ít người thật đặc biệt. Họ cất giữ mối dây hạnh phúc của bạn. Họ gợi lên trong bạn bao nhiêu ký ức tốt lành. Một cách mơ hồ, bạn biết, phía sau vẻ bình thường và vụng dại kia, chính là bí mật của những gì mà bạn muốn tìm kiếm: Lòng tốt sáng trong, tình cảm nhiệt thành, niềm vui sống dịu dàng, vô bờ bến. Bạn yêu quý người ấy, nhưng bạn chỉ dám dõi theo từ xa thôi. Tôi ít phê phán kẻ khác. Mỗi người đều có những lý do khác nhau. Nhưng cái cách Đông nói về Hoan thường làm tôi phát điên lên. Tuy nhiên, làm tôi đau nhất, chính là tình cảm chân thành lạc đà bé bỏng dành cho cậu bạn ích kỷ chết tiệt ấy. Tôi không sành sỏi lắm tâm lý của các cô gái. Lạc đà bé bỏng đã chọn Đông, như vậy tôi chẳng có tí teo hy vọng nào trong mắt cô gái kỳ diệu ấy, phải vậy không?
Hình ảnh Hoan cứ ám ảnh tôi như thế. Đến mức, rất nhiều buổi tối, tôi phóng xe máy đến quán nhạc, nơi cô làm điều chỉnh âm thanh ánh sáng. Ngồi khuất trong góc, đội mũ lưỡi trai che mặt, tôi chăm chú dõi theo cô làm việc. Đôi mắt to tướng thi thoảng hướng vào một điểm nhìn vô hình nào đó mỉm cười với những suy nghĩ thoáng qua trong đầu. Đến quán nhiều lần tôi cũng quen người chơi piano. Chị ta hơi khó chịu, hơi ranh ma, nhưng là người sòng phẳng có thể chấp nhận được. Hơi phức tạp một chút, tôi cũng mua được cặp vé hạng nhất nghe Jazz Hà Lan, từ người chơi piano này. Khi giao vé cho tôi, chị ta càu nhàu: “Cậu rủ ai đi cùng? Cô nàng nào mà may mắn thế nhỉ? Hừm, tôi biết có một người bỏ cả một tháng lương và chiếc xe đạp để được �
�i cùng anh chàng cô ta thầm yêu từ lâu…”. Dù biết Hoan hơi khờ khạo, nhưng nghe điều ấy từ miệng kẻ khác, hệt như tôi bị đấm mạnh vào khoang bụng. Tôi hôm qua, sau khi quán bar đóng cửa, tôi lặng lẽ chạy theo sau xe bus. Nhìn điệu nhảy ngộ nghĩnh của lạc đà bé bỏng trên vỉa hè, tôi đã mỉm cười vui mãi không thôi.
Điện thoại, Đông uể oải hỏi tôi có muốn đi nghe jazz không. Cậu ta sắp vào xem một bộ phim Mỹ, sẽ cho tôi vé nhạc. Tôi quyết định gặp Đông. Trước cửa rạp ciné, cậu bạn đứng với mấy cô gái. Họ cười đùa khá ồn ào. Nhìn thấy tôi, Đông rút hai chiếc vé quăn queo trong túi áo, vội vã dúi vào tay tôi. “Sao cậu không dùng cặp vé này?” - Tôi hỏi lạnh nhạt. Đông khựng lại, rồi cười toáng lên: “Jazz chán ngấy. Tớ không muốn làm màu tối nay. Với lại mấy cái vé mời rẻ bèo kiểu này kiếm đâu chả được!”. Đột nhiên vụt ra ngoài tầm kiểm soát của chính tôi, cánh tay tôi túm chặt ngực áo cậu bạn: “Cậu là đồ khốn, biết không?”. Vùng mạnh ra, Đông nhìn tôi bằng cặp mắt nâu rỗng tuếch, miệng cười nhạo báng: “Thôi nào, cậu uống say hay sao mà phát điên lên thế!”. Tôi quay lưng bỏ đi.Ừ, có lẽ tôi cũng điên thật. Tranh cãi với một kẻ như Đông thì có ích gì.
Tôi nhìn đồng hồ. Gần 7 giờ tối. Tối nhét hai vé vào túi, phóng xe đến quán bar. Hoan đang lủi thủi bước qua cửa, không nhìn ai. Bị chặn ngang lối đi, cô gái ngước nhìn tôi, mí mắt sưng đỏ vì khóc. Tôi nói vắn tắt: “Xin nghỉ làm tối nay. Đi cùng tôi!”. “Đi đâu?” - Câu hỏi sợ hãi. “Nghe jazz Hà Lan!” - Tôi chạm nhẹ bàn tay vào vai lạc đà bé bỏng.
Chúng tôi vào khán phòng bằng cặp vé của Hoan. Đôi vé tôi mua, tặng lại cho đôi tình nhân đang tuyệt vọng trước cửa nhạc viện. Hoan nhìn tôi bàng hoàng, mỉm cười, thì thầm: “Giống như phép thần tiên trong phim hoạt hình Shrek ấy!”. Chúng tôi ngồi sâu vào ghế chìm đắm trong biến tấu không ngừng của những bản nhạc. Thế giới chung quanh bỗng lùi xa, nhẹ bổng, tràn đầy cảm xúc dịu dàng. Trong dòng chảy âm nhạc mê hoặc ấy, dường như mọi thứ đều bay lên, mọi cằn cỗi, tính toan được tha thứ. Trái tim bỗng rộng mở, đầy hy vọng và sướng vui khi nhớ rằng ngay cạnh đây, là người mà ta chờ đợi từ rất lâu, để thương yêu.
Tôi đưa Hoan về nhà, sau đêm nhạc. Đường vắng lặng. Bóng đêm. Gió. Tôi dừng lại, lấy áo cất dưới cốp xe cho Hoan. Cô đăm đăm nhìn cái áo khác, thì thào: “Là anh ư, Huy?”. Chẳng biết nói sao, tôi đặt nụ hôn lên trán lạc đà.

Friday, April 11, 2008

Stepping on the rainy street - Khiết Lam

Người đàn ông nhìn tôi, ánh mắt trượt thẳng như đang xuyên qua một lớp kính trong suốt:

_ Cậu chưa từng học chơi bất kì một loại nhạc cụ gì trước đây?

Tôi bình thản lắc đầu.

_ Không biết bất kì một điều gì về nhạc lý cơ bản?

Lần này thì tôi hơi mỉm cười.

_ Không, tôi không biết.

Ánh mắt đột ngột dừng lại, xoáy sâu vào tôi, dò hỏi.

_ Cậu bao nhiêu tuổi rồi?

_ Hai mươi hai.

_ Quá trẻ để dừng lại, nhưng quá muộn để bắt đầu. Cậu về đi.

Tôi đáp lại lời từ chối một cách nhẹ nhàng.

_ Tôi có điều mà một nghệ sĩ dương cầm cần phải có.

_ Cậu có điều gì?

_ Tình yêu.

Thoảng qua tôi một tiếng thở dài rất khẽ.

_ Lý do học đàn của cậu là gì, anh bạn trẻ?

Tôi hơi rùng mình, môi mấp máy một niềm dịu ngọt êm đềm.

_ Tịnh Ngọc.

Chúng tôi cùng im lặng. Vệt sáng mùa thu lướt dài qua căn phòng cũ kĩ thơm mùi nắng, ở đấy, nỗi buồn không bỏ quên một ai, dù họ có là chàng trai 22 tuổi, hay là người đàn ông đi qua 40 năm cuộc đời với ánh nhìn trượt thẳng hững hờ.

Từ đó, tôi học đàn với thầy Dương 1 tuần 2 buổi. Những ngày mưa, tôi đến với mái tóc lấp loáng nước, dựng xe vào góc tường gạch đỏ loang lổ rêu xanh, lặng lẽ đứng nghe tiếng dương cầm phía trong nhà thong thả nhỏ giọt. Khoảng ký ức êm đềm vụt thoáng qua như cơn mưa bóng mây.

Này giấc mơ ơi
Có qua ngang trời
Cho ta nhắn gửi
Điều gì xa xôi


Thỉnh thoảng, khi hình dáng gầy guộc và đơn độc của một người con gái bên cây đại dương cầm trở về trong mảnh ký ức ẩm ướt, tôi vô tình nhìn xuống tay mình. Đôi bàn tay trống không như một câu hỏi thảng thốt vẫn đợi chờ dư vọng của lời đáp trả.

_Phan, em sẽ dạy anh đàn Stepping on the rainy street.

_ Tại sao? Anh thích nghe em đàn hơn.

Khoảng trống im lặng kéo dài.

_ Anh không hiểu…

_ Em cũng không hiểu…

Những lý do chưa bao giờ là quan trọng. Một lần ngước mắt lên trời cao, chợt thấy một ngôi sao băng vụt qua, thế là đủ để người ta biết, chỉ còn mình tự thì thầm hát với chính mình.

Những ngày choàng tỉnh, miên man uống cạn làn hơi ấm cũ, ngơ ngác đứng bên vệ đường, tôi tìm lại hình bóng em bằng sự lạc lõng và xôn xao của gió.

Tịnh Ngọc. Ngay cả tên em tôi cũng chỉ dám gọi thầm, vậy thì tại sao có một người cứ chờ đợi mãi?

Và cuộc sống.

Có bao giờ chịu dừng lại dù chỉ một giây để tôi kịp trải lòng mình?

Bước chân trên con đường ướt mưa, người ta dễ trượt ngã.

Có hề gì.

Chỉ cần mưa…

Thầy Dương sống một mình, không người thân, không bạn bè, không tất cả, trừ âm nhạc. Những phím dương cầm chuốt ngà ngân vang dưới tay thầy một niềm rung cảm sâu xa, trìu mến. Tôi tự hỏi có phải âm nhạc khiến người ta không cần lời nói nữa, mà hầu hết mọi giao tiếp giữa tôi và thầy đều diễn ra qua 2 màu đen trắng của phím đàn. Chúng tôi chia sẻ với nhau, lặng lẽ và đơn độc.

Trừ lần đầu tiên gặp mặt, thầy Dương không hỏi thêm tôi bất kì một điều gì về Tịnh Ngọc cũng như lý do vì sao tôi học đàn. Chỉ thỉnh thoảng, nỗi nhớ của tôi vô tình ứa ra ngoài, và một mảnh chạm vào miền im lặng của thầy, khiến chúng tôi cảm thông với nhau hơn. Đó là khi bên khung cửa sổ nhòe mưa, tôi chơi bản “Stepping on the rainy street”, quên mất mình đang ngồi trong căn phòng nhỏ, đắm mình vào từng giọt âm rơi thánh thót qua từng kẽ tay. Tôi ngước lên, bắt gặp ánh nhìn trượt thẳng của thầy, lơ đãng.

_ Đã bao lâu rồi cậu xa cô ấy, Phan?

Đã bao lâu rồi tôi xa Tịnh Ngọc? Tổng cộng đã 2 năm 10 tháng 7 ngày trôi qua từ lần cuối cùng tôi gặp em. Nhưng tiếng đàn, làn hương và niềm dịu ngọt ân cần ấy, chưa một lần rời xa tôi, kể cả khi tôi ngủ quên trong giấc mơ của mình.

Đã bao lâu rồi, tình yêu của tôi?

_ Chưa bao giờ, thưa thầy.

Và mùa cũng qua
Và người cũng xa
Điều gì rất lạ
Dịu dàng đơm hoa


Ngày mùa đông, mặt trời lặn sớm. Một chú sẻ gầy thong thả mổ vài hạt nắng sót lại bên vệ đường. Lại thêm một mùa thu đi qua trong yên tĩnh. Tôi đến nhà thầy Dương với gương mặt xanh xao của 1 thằng con trai ấp ủ trong tay nỗi buồn năm 22 tuổi. Trời đổ mưa, hơi nước toả đầy không khí. Tôi tấp xe, dựa cả người vào tường, đột nhiên thấy vai mình run rẩy. Lớp vỏ ngoài tĩnh lặng bỗng tan vỡ như bọt nước, tôi biết mình đang mất dần khả năng xoay xở với nỗi cô đơn. Phía trong nhà, từng giọt âm thanh vẫn rơi đều, thong thả.

Tôi thì thầm theo lời nhạc.

Ngày hôm qua chưa đến
Sao anh còn đứng chờ
Điều gì như nỗi nhớ
Em gọi là lãng quên


Một giọng con gái mềm như hơi nước thoảng vào tôi.

_ Kính anh nhòe rồi, Phan.

Giữa cái ngõ nhỏ rêu phong, trong tiếng thở dài của phím đàn hoà vào tiếng mưa, người con gái tôi yêu đứng đó, nhìn tôi chăm chú bằng ánh mắt nâu sẫm dịu dàng.

Tôi chẳng kịp níu em lại bằng một nụ hôn.
Và một lần nữa, em đi qua tôi.

Không đủ can đảm để cộng thêm 90 ngày mùa đông vào 2 năm 10 tháng 7 ngày, tôi xin nghỉ học ở chỗ thầy Dương.

Người đàn ông nhìn tôi, ánh mắt trượt thẳng thay vì xuyên qua một lớp kính trong suốt lại lấp loá những phản chiếu.

_ Tôi chưa bao giờ có thể chơi nhạc một cách trọn vẹn, còn cậu thì khác. Cậu biết tại sao không, Phan?

_ Tại sao, thưa thầy?

_ Vì còn đó những khoảng trống giữa 10 ngón tay. Đừng để vuột mất 1 bàn tay khác có thể lấp đầy nó, như tôi đã từng.

_ Cậu định xa cô ấy bao lâu, Phan?

_ 2 năm 10 tháng 7 ngày.

Tôi im lặng, rồi nói tiếp, những lớp băng tan vỡ.

_ Và sẽ không hơn nữa, thưa thầy.

Wednesday, April 9, 2008

Lan can ngày mưa - Minh Nhật

Ngày gió

Chuyến bay trễ giờ làm Phương cảm thấy mệt mỏi, nhìn qua cửa kính, nó thấy một khu vực Hà Nội mượt mà trong làn mưa. Khoảng thời gian chống chếnh vừa rồi làm nó cảm thấy như mười năm chứ không phải một năm. Việc viết báo cáo cho đồ án không như mong đợi, thay nơi ở liên tục vì những lý do không đâu, rất nhiều dòng trên tờ kế hoạch năm được đính trên noteboard không được gạch, khoảnh lặng của một tình yêu dài xa cách như một ngọn nến cháy gần hết được kết thúc bằng một lời chia tay online… Không gian ngoài máy bay lạnh lẽo, Phương muốn nhanh chóng về nhà, ngủ một giấc hơn mười hai tiếng. Nó cũng chỉ ở Việt Nam hai tuần, rồi quay lại Mỹ thực hiện phần còn lại đồ án dang dở.

Khúc hát nhẹ

Ba ngày từ lúc trở về. Phương chỉ loanh quanh ở nhà dọn dẹp, nghỉ ngơi và về quê thắp hương cho mẹ. Nó đã quen dần với cái không khí khô lạnh của Hà Nội. Phải cố gắng sau rất nhiều chếnh choáng, Phương mới không gọi cho Thủy. Sau khi đã quá quen với việc một cô gái đi vào cuộc sống của mình, giờ đây nó phải tập thấy bình thường với một ngày không liên quan đến Thủy, thói quen không làm nên tình yêu cần thiết. Rành mạch và đơn giản, niềm tin kỳ quặc khiến nó nghĩ rằng việc chấm dứt với Thủy là một quyết định hợp lý, còn lỗ thủng trên bức tường sau khi rút một chiếc đinh ra, gần như là tất nhiên. Dù thế, từ sâu tận, nó vẫn như chờ đợi điều kỳ diệu gì đó… Chiều lạnh cóng, Phương thu mình trong chiếc áo vest bụi màu xanh thẫm, đi bộ loanh quanh bờ hồ mua vài thứ đồ, cuộc sống xa nhà rèn luyện thói quen làm mọi việc một mình, nếu không thật sự cần partner, tốt hoặc xấu đều trở lên quen thuộc. Phương đi dạo ở đây vì thói quen thích ngắm những cô gái xinh đẹp, có lẽ là tư duy còn sót lại từ giai đoạn nó còn làm casting người mẫu cho một tờ báo nhiều ảnh. Phương rẽ vào café 8X, một quán không có khi nó còn ở Việt Nam, nó mang mác thấy một phong cách design gần giống với Sago Phan Đình Phùng hồi xưa… “oh I am what I am, I do what I want, but I can’t hide. I won’t go, I won’t sleep, I can’t breath until u’re resting here with me…”. Chiếc loa từ đâu đó vang lên bản nhạc cũ kỹ của Dido, tình cờ đúng đoạn nó thích. Gọi một ly Gin tonic, Phương ngồi dựa vào cái gối xanh rêu rất hợp với màu áo của nó. Nó mở di động, chiếc sim mới mua lúc sáng trống rỗng không có contact bất cứ ai, trong giây lát, nó chợt muốn bấm số của Thủy, chỉ nghe giọng, rồi dập đi vì dù sao Thủy cũng sẽ không biết số này là của Phương… Nó bấm “call”, vài giây sau, đâu đó trong quán chợt vang lên bản Mint love. Phương giật mình gập máy lại. Tay nó hơi run lên, ướt đẫm, Mint love là bản nhạc chuông ưa thích của Thủy. Vậy là cô đang ngồi ở một bàn nào đó gần quán này. Trỗi dậy một cách tự nhiên, nó đưa mắt nhìn quanh tìm dáng hình quen thuộc, chợt Phương thấy một người đang tiến về phía mình, trên môi nở một nụ cười như trước rất nhiều flash. Cô gái ngồi xuống bàn của Phương, mỉm cười:
-Còn nhận ra em không? Anh mới về nước ư, em nghe nói anh đi Mỹ mà?
“À đúng rồi Giang Lê, mình đã mời cô nàng chụp ảnh vài lần và cô gái này từng rất thích mình”. Phương gật gù:
-Nhận ra chứ, anh cũng mới về được vài ngày. Em còn chụp không?
Lê lắc đầu:
-Dạ không. Em thôi chụp từ lâu lắm rồi. Thật tình cở gặp anh ở đây, em không nghĩ rằng có ngày gặp lại anh đâu!
Phương cười cho qua chuyện, nó không thích hỏi và làm rõ những sự tình cờ. Hơn nữa nó cũng không thật sự quan tâm đến Lê, trước nay vẫn thế. Phương chỉ tìm và giới thiệu những cô gái xinh xắn cho tạp chí của nó, còn thì không quan tâm đến những phụ kiện của một công việc vốn nhiều rắc rối không dự đoán trước được.Lê vẫn giữ nụ cười thường trực trên môi, nói về một câu chuyện gì đó, Phương ậm ừ, mắt vẫn thờ ơ nhìn xung quanh, chợt nó nhìn thấy Thủy, đang ngồi với một ai đó. Là Thủy, dù chỉ từ phía sau, nhưng chiêc áo len viền nâu ở tay thì không sai được, vì của nó tặng…
-Mai anh rảnh không?
Phương nhìn về phía người con trai ngồi cạnh Thủy, chăm chú. Những nụ cười. Tay và tay. Giây lát trấn tĩnh, Phương thở nhẹ, ánh mặt dịu lại, nó rút thuốc ra hút, lần đầu tiên mỉm cười với Lê:
-Mai phải không? Được anh cũng rỗi.
Phương rút di động ra, rút sim vứt sang một bên. Giờ nó không chờ đợi gì nữa. Muốn bắt đầu một vấn đề khác, trước hết, hãy kết vấn đề cũ tương tự.

Như là yêu

Qua vài ngày liên tục gặp Giang Lê, Phương biết Lê vẫn thích nó, không hề nhạt đi chút nào, dù đã lâu lắm rồi hai người không gặp nhau, và không có vẻ gì là còn quan tâm đến cuộc sống của nhau. Thật sự, Phương là mẫu người dễ khiến con gái xiêu lòng. Đẹp trai theo cách đơn giản vẻ đàn ông. Những sự hoàn hảo không cầu kỳ trong tính cách và cuộc sống riêng.Cởi mở theo bản năng và khép kín khó đoán theo logic suy nghĩ. Lạnh lẽo và nhiệt tình đúng cách và đúng chỗ. Phương sống tự lập sau khi mẹ nó mất không đột ngột, bởi một căn bệnh được báo trước là không có lựa chọn nhiều. Quyết định rời Việt Nam đi học cao học khi đã có thể kiếm được công việc ổn định khiến không ít người góp ý theo những chiều ngược lại, mối quan hệ không được tốt với người gia đình, nhất là mẹ kế, khiến nó tuy chống chếnh và hay mất cân bằng, nhưng quyết đoán và dứt khoát trong các quyết định đúng ra cần thời gian. Phương đi Sing bằng tiền của người bố đã gần như tách khỏi nó sau khi cấp cho nó một căn hộ riêng, tự nhủ rằng mình đang vay không lãi và sẽ có ngày hoàn trả hết…
Nó không từ chối Lê, cũng không nói đồng ý. Nó chỉ gật đầu, như một sự chấp nhận cho sự có mặt của Lê, lúc này, ở cạnh nó như bạn gái. Phương không phải mẫu người dễ dãi với bản thân, nhưng trong khoảnh khắc của những chờ đợi không như ý muốn, nó thích làm những thứ mới mẻ và không mục đích, chỉ như việc lau bụi cho một thứ đồ lâu không dùng, đến khi nó đã sạch sẽ trở lại thì thôi, rất đơn giản. Lê không phàn nàn gì về cách mà Phương đối xử với Lê, cô thuộc tuýt người xinh đẹp và có đầu óc, việc duy nhất mà Lê tự cho rằng hơi ngờ nghệch một chút, nhưng thật ra thì cũng rất quần chúng, là thích yêu hơn là được yêu, điều này thì ngược lại với Thủy. Thủy thích đối phương yêu nhiều hơn và bộc lộ rõ điều đó. Ngày đầu tiên hai đứa đi với nhau, Lê mặc định cho Phươn
g một điều:
-Dù sao anh cũng chỉ ở Việt Nam 2 tuần, coi như anh và em yêu nhau trong hai tuần này! Bất kỳ anh suy nghĩ thế nào, hãy cho em làm những điều em muốn, em thích như thế. Rồi sau hai tuần thì hết! – Lê nói và nhoẻn miệng cười.
Phương lắc đầu cười:
-Tây thế!
… Phương nhớ, hồi xưa, khi lần đầu nhìn thấy Lê ở Ly’s – một cửa hàng quần áo nhỏ ở đoạn đường Lý Quốc Sư – nó cảm thấy Lê như một cốc táo ép, Phương nhìn Lê một lúc. Cao, mí mắt nhỏ và dài, đôi tay gầy guộc với những móng tay không sơn, như chứa đựng một sự chờ đợi gì đó, tóc dài, thẳng và mượt tựa hồ được chụp lại từ những cô gái của một ngày Hà Nội xưa. Nó thích cái mũi của Lê, cao và hơi hếch lên như một con vành khuyên biết rằng mình hót hay. Nó nói với Lê, vẫn mang máng:
-Này, nếu em béo lên một chút và bỏ thói quen nheo mắt đi, thì em sẽ trở thành một mẫu ảnh đẹp đó, em có hứng thú muốn thử chụp không?
Hừm, bây giờ thì Lê đã béo, chính xác là đỡ gầy hơn chút ít, trông đã có vẻ giống một ly xoài dầm, Phương bật cười vì thói quen so sánh người khác thành những thứ thức uống hoa quả. Duy có một điều Lê vẫn thế, là thói quen nheo mắt khi nói và suy nghĩ, như thế, thoảng hoặc làm Phương nhớ J.Robert trong “Luật sư không bằng cấp”.
Trong suốt những ngày sau đó, Lê và Phương gặp nhau mỗi ngày và mỗi lần gặp, Lê mang đến cho cậu những món quà kỳ lạ khác nhau, khi là một lọ xương rồng lùn tịt với những chiếc lá to bản như được ép ra từ khung cửa cổ kính nào đó, khi thì là một chiếc đồng hồ bàn cũ kỹ hình thoi với phần đế mạ một thứ kim loại được bẻ cong thành hình trái tim méo mó, như khi làm nó người thợ bị say sóng. Chiếc áo len lông chuột mang hình một bức tranh phố trên ngực, vừa như in. Vài cuốn sách mĩ thuật bên trong chằng chịt những chú thích bằng mực đỏ và sticker của Lê, nhắc Phương về niềm đam mê với nghệ thuật màu sắc từng bị chối từ phũ phàng bằng ước mơ nhiều thực tế hơn. Từ một cuộc gặp gỡ không định trước, Lê đi vào những ngày Hà Nội ngắn ngủi của Phương một cách sắp đặt, trên những quán với cách dầm xoài bằng cả hai tay, trên những phố thong dong bằng ngón tay út nắm hờ, trong rạp chiếu phim bằng những hộp pop-corn to đùng hai đứa cùng chí chóe bốc… Phương thấy một sự chao đảo dịu dàng…

Khoảnh khắc tất cả

Thứ 3. Bình minh nhợt nhạt trên vòm cửa thấp thoáng qua tấm rèm màu kem có những ô lục giác màu ghi nhạt xen kẽ, hành lang lót gạch xanh dương loang loang nước mưa khi Phương bước ra lan can, sau khi choàng tỉnh giấc dài bởi một luồng sáng chiếu tình cờ vào mắt. Âm thanh có vẻ xa xôi trong bản nhạc wedding bất hủ By heart, by soul của Aaron Neville vang lên từ chiếc loa PC. Phố ướt. Mưa làm đường trở nên lấm lem. Phương rút thuốc ra, vươn vai. Chợt, Phương giật mình, khoanh tay:
-Này cô bé, đứng đấy từ khi nào vậy?
Xoay xoay chiếc ô Espirit màu vàng rực rỡ có lằn tím như một con ong nhỏ, Lê mỉm cười:
-Em cũng mới đến. Em chờ anh ở đây?
Phương bật cười, búng tay:
-Nếu không phải mưa thì anh sẽ cho em tiếp tục đứng đó. Hãy rũ sạch nước từ cái ô kỳ quặc đó. Tầng hai phòng đầu tiên bên trái.
Vài phút sau, Lê đứng trong căn phòng bừa bộn của Phương khi cậu đang pha café. Phương đưa một cốc cho Lê – đang xoa xoa hai tay cho đỡ lạnh:
-Tại sao em tìm ra nhà anh khi anh chỉ nói về nó một lần, không nhiều người làm được điều đó.
Lê đón chiếc cốc men màu xám lục uốn éo huyền hoặc như được làm ra cho những người hành khất Digan, cánh mũi phập phồng:
-Không , em không thật sự tìm được chính xác, em đã băn khoăn không biết rẽ ở đâu trong chiếc cầu thang có thể dẫn đến 6 căn phòng khác nhau này!
Phương mỉm cười, châm điếu thuốc khi nãy, Lê nheo mắt:
-Anh hãy hút thuốc khi cảm thấy thật sự cần, đừng hút vì thói quen - rồi cô nhấm một ngụm café – Này, anh thật sự ở đây hả? Một mình! Em nghe nói chỉ có những kẻ làm nghệ thuật mới thích có cuộc sống bừa bộn đơn lẻ như thế này, phòng này tựa như dành cho một con chuột túi chứ không phải anh!
Phương ngồi xuống chiếc ghế tròn bằng gỗ:
-Công việc marketing của anh bây giờ cũng không khác làm nghệ thuật, mà sướng là anh lại không phải là nghệ sĩ, thế nên anh ăn đủ ngủ đủ và biết lo cho chính mình.
-Anh thích sống vậy ư?
Phương nhún vai:
-Không phải thích hay không, anh sống như thế lâu rồi cô bé.
Lê lơ đãng nhìn lên mảng trần nhà có một mảng mạng nhện được vẽ graffti khéo léo:
-Vì sao?
-Cái gì vì sao?
Câu hỏi ngược rơi vào khoảng trống, Lê không trả lời, hai tay vẫn giữ cốc café, nhìn vào đáy mắt Phương. Một cơn gió lạnh chui qua khe cửa làm tấm rèm tung lên bất ngờ. chợt cặp mắt màu ghi kỳ lạ của Lê khiến cậu bối rối, Phương chưa từng gặp ánh mắt khiến nó như thế, ý nghĩ trong đầu đan xen một cách tội nghiệp bởi luồng ánh sáng cảm thông từ trái tim.
-Em thực sự muốn nghe?
Lê gật đầu, dịu dàng. Phương bước ra ngoài lan can tràn gió. Cụm bạch lan trồng tinh tế trong hai chậu màu xám ngắt, có vẻ không liên quan gì đến khung cảnh dở dang chung quanh, đang hơi nhu nhú những chùm mới, mái gỗ màu nâu của căn hộ tầng một sót lại những giọt sương của đêm, đang đọng lại to dần và chảy xuống phía dưới một cách chậm rãi. Phương thở nhẹ, bao lâu rồi nó không nói về những mối quan hệ trong gia đình, về người mẹ không thay thế, về ông bố kỳ quặc nghĩ nhiều cho bản thân, và về những rạn nứt thở ơ trong cuộc sống va chạm sớm của một đứa bé từng hay thất vọng… Đĩa nhạc wedding vẫn du dương nhè nhẹ trên nền violon trong trẻo của Steven Chapman, làm tan ra những ký ức mơ hồ. Tháng ba mang mác xa xăm và ngắn ngủi trong làn hơi lạnh bốc lên từ mặt đường đang khô dần khi những chiếc xe vụt qua. Duy nhất từ khi mẹ mất, Phương mới nói chuyện với một cô gái như thế này, Thủy dường như chưa từng. Lan can bé nhỏ đậm mùi ngọt ngào kỳ ảo của hai cốc café cạnh nhau như quyện cả vào những cánh bạch lan. Khoảnh khắc, Phương ngỡ mình đang ở giữa một giấc mơ.
… Có những tình yêu đến bất ngờ bằng mắt đẫm mênh mang…
Bây giờ anh đã ở Mỹ. Hai tuần ngắn hết vội vàng. Căn phòng bụi bặm kia sẽ lại lần nữa đón chiếc ô nhỏ màu vàng. Anh đã rời Việt Nam, làm nốt những điều anh còn chưa thực hiện được ở nơi đây. Nhưng anh sẽ trở về bắt đầu lại, mơ nốt một giấc mơ còn đang mở, và yêu em lại từ đầu, Lê ạ.
Phương nhấn send cho cái mail ngắn ngủi. Một
trong nhiều chiếc đĩa mà Lê burn cho Phương, cất lên bản “Tuesday morning” – giọng Michelle Branch êm và gợn như New York ngày mưa… “I remember, stormy weather, the way the sky looks when it’s cold, and you were with me, content with walking…”

Sunday, April 6, 2008

Tạm biệt Rainy - Đông Vy

Đó là một quán cà phê nhỏ nằm trong hẻm vắng, nhạc êm dịu, một bụi trúc lơ phơ buồn bã nơi góc sân. Quán chỉ có năm cái bàn, hai mươi chiếc ghế, nhưng chưa bao giờ đầy, có lẽ vì ông chủ quán lơ đãng luôn thích ngồi đọc sách hơn là chăm chút khách. Kiên vẫn bảo Rainy là một ví dụ thất bại về mặt kinh doanh. Nhưng đó là nơi tôi thường đến, nó tĩnh lặng và gần nhà trọ.

****

Rainy.

Buổi hẹn hò thứ nhất.

Tôi chống cằm nghe Kiên kể về tuổi thơ và một thời bôn ba của mình .

- Tôi lang thang từ năm 14 tuổi, làm đủ thứ việc, nhiều nhất là thợ hồ, rồi học hàng hải, sau đó làm thủy thủ. Buôn lậu, em biết rồi... Năm 92 tôi gặp “tai nạn”. Thế là lên bờ, tôi tưởng mình hết đường, nhưng lại loay hoay, rồi học quản trị kinh doanh, qua bốn năm chỗ làm trong ba năm, bây giờ làm giám đốc tiếp thị cho công ty Y...Chỉ có công việc với công việc, nếu tính ngày làm 8 tiếng thì có khi tôi làm 40 ngày một tháng...đôi khi thật cô đơn....

Tôi nhìn khuôn mặt xương xương, rắn rỏi, đột nhiên nhận ra nụ cười của Kiên quen thuộc lạ lùng, đến độ tôi muốn phát khóc lên...Anh mang lại cho tôi cảm giác ấm áp, thứ cảm giác mà trước kia tôi chỉ có được từ ba.

****

Rainy.

Buổi hẹn hò thứ hai.

Tôi đố anh, cái gì mênh mông, sâu thẳm và dịu dàng.

Kiên lắc đầu. Chịu.

- Nó có màu đen. Tôi cố nài...

- À, cà phê.

- Không phải, nếu là cà phê thì em sẽ nói : đen và đắng. Cái gì?

- Tóc em.

- Không - Tôi thất vọng- Đó là đêm.

- Ngớ ngẩn. Anh phì cười.

Tôi nói với anh rằng tôi rất nhớ những ngày đông Đà Lạt. khi tôi ngồi bên thềm nhà vào buổi tố và nghe mùi đất tan trong mùi cần tây, mùi bắp cải úng, mùi gió, mùi hương hoa hồng, mùi nhựa thông, mùi sương lạnh...Trong trẻo. Tôi yêu nơi đó, những con dốc vàng hoa dã quỳ vào tháng chạp.

Tôi kể cho anh nghe về ba, người đã chăm chút tôi như một báu vật từ khi mẹ tôi mất, về Nghi, đứa bạn thân nhất thời thơ ấu của tôi. Nghi đẹp như vẽ, má rám hồng, môi cong, mắt lá răm, mày lá liễu, tóc quăn từng lọn. Vẻ đẹp mạnh mẽ và in rất sâu dễ làm cho người ta nghĩ Nghi sắc sảo và đanh đá, nhưng trái lại, Nghi luôn từ tốn và im lìm. Nghi chỉ nói chuyện với tôi, chơi với tôi, chẳng hiểu sao, có lẽ vì cha con tôi chưa bao giờ thì thầm sau lưng Nghi về mẹ nó, cũng có lẽ vì chúng tôi giống nhau, tôi mồ côi mẹ, Nghi không có cha. Hết phổ thông, tôi xuống Sài Gòn học Đại học còn Nghi ở lại trồng hoa, rồi sẽ tìm một người đàn ông tốt và lấy người đó làm chồng, vì mẹ Nghi muốn thế.

Tôi kể về mẹ Nghi. Một người đàn bà đẹp và kiêu hãnh, và thật lạ lùng. Bà nội tôi nói “Làm đĩ mười phương còn chừa một phương lấy chồng” nhưng mẹ Nghi thật dại dột khi chừa lại một quê nhà, bởi đó là nơi tất cả mọi người đều nhớ rõ ngày một cô gái đẹp ra đi, ngày một người đàn bà trở về, đem theo đứa con mang họ mẹ. Số tiền bà gửi về cho người mẹ già chữa bệnh, nuôi đứa em đi học đại học không thể biện minh cho những năm tháng “giang hồ” đầy tai tiếng. Nhưng dầu sao, có Nghi rồi thì bà thay đổi, cũng vì lúc đó bôn ba không nổi với đời, đàn ông có đôi mắt như cú vọ mà bà thì quá đẹp, nên bà về quê, mua một mảnh vườn nhỏ, lặng lẽ với nghề trồng hoa. Sự lặng lẽ khiến người ta để bà sống yên ổn, thỉnh thoảng chỉ xì xào bàn tán sau lưng. Mọi người thường bảo Nghi giống mẹ, rồi tặc lưỡi nói thêm, có muốn bảo giống cha cũng không được, vì ngoài mẹ Nghi, có trời mới biết cha Nghi là ai giữa hàng tá người đàn ông đi qua đời bà trong chừng ấy năm trời lang bạt.

Tôi chưa bao giờ nói chuyện với mẹ Nghi quá hai câu. Bà có vẻ lạnh lùng và kiêu sa kỳ lạ của một người đàn bà biết mình đẹp và biết rõ mọi người xung quanh coi thường mình. Ba tôi thường trầm ngâm hẳn đi mỗi khi nhìn thấy bà gánh hoa ngang qua nhà vào mỗi sáng, quấn quanh cổ chiếc khăn len màu đó, đầu luôn ngẩng cao, đôi mắt giống hệt mắt Nghi, luôn mở to, mạnh mẽ nhưng buồn vô hạn. Nếu lúc đó ba đang tưới rau, hẳn ba sẽ đứng sững lại, rồi lặng lẽ gục đầu xuống khi bà đã khuất bóng nơi ngả rẽ, để mặc nước chảy lênh láng. Tôi nghĩ, ba yêu bà ấy.

Tôi kể với anh, Đà Lạt trong tôi chỉ có vậy, vườn rau của ba tôi, những gánh hoa của mẹ Nghi, những con dốc mà Nghi và tôi thường đèo nhau chạy suốt buổi chiều, những buổi tối tôi ngồi một mình và phá
t hiện ra rằng đêm rất mênh mông, sâu thẳm và dịu dàng. Chỉ thế thôi, nhưng tôi nhớ lắm.

****

Rainy.

Buổi hẹn hò thứ ba.

- Em hỏi tình yêu là gì ư ? Đó là sự ám ảnh. Ví như như nghề tiếp thị của anh vậy, em nhìn thấy một câu slogan thú vị, một hình ảnh quảng cáo cà phê ngộ nghĩnh, nó đập vào mắt, một cách tình cờ, hay do nhìn thấy khắp mọi nơi chung quanh mình, rồi ăn sâu vào tiềm thức, và mỗi khi uống cà phê, mỗi khi đến quán cà phê em lại nhớ. Người ta gọi nó là sự ám ảnh. Anh cũng vậy. Đó là buổi chiều anh gặp em ngồi trong quán kem ở Hồ Con Rùa, vừa chóp chép nhai bò bía vừa chúi mũi vào cuốn sách trong hoàng hôn nhập nhoạng. Hình ảnh đó thu hút anh, làm anh hoang mang, ám ảnh anh trong cả giấc ngủ. Nên anh biết anh yêu.

Lúc ấy, cả tôi và Kiên đều không biết rằng, anh phải mất đến hai năm mới phát hiện ra là ngoài hình ảnh đó tôi không còn gì ám ảnh anh nữa.

****

Rainy.

Tôi ngồi trước Nghi với vẻ mặt kiêu hãnh của người thua cuộc. Ba tuần trước, Kiên lên Đà Lạt cùng với công ty, tôi ngu ngốc nhờ anh đến nhà Nghi để gửi mấy cuốn sách tôi cho Nghi mượn. Chỉ hai ngày và tất cả thay đổi. Kiên gọi điện để nói một câu ngượng nghịu, anh xin lỗi, rồi thôi. Lòng tôi tan nát. Ngày xưa, khi Nghi về đích trước tôi trong Hội khỏe Phù Đổng của trường, Nghi đã nói : “Nếu chạy một mình, hay nếu luôn dẫn đầu, Lam sẽ không biết mình đang chạy nhanh hay chậm. Còn Nghi, phía trước Nghi là Lam, Nghi biết Nghi phải vượt lên và lúc nào thì Nghi cần tăng tốc. Nghi thắng, chính vì Lam đã dẫn đầu suốt cuộc đua”. Đôi khi, cuộc đời cũng vậy. Người ta không được phép chủ quan khi chưa đến đích. Đáng lý ra, tôi không nên để Kiên gặp một cô gái đẹp và có sức ám ảnh hơn tôi.

Nghi chấm ngón tay vào ly trà rồi vẽ lên mặt bàn những đường loằng ngoằng bằng nước, ngập ngừng:

- Tụi mình thấy có lỗi với Lam.

Tôi bảo, không sao cả, Lam với anh Kiên cũng chưa có gì sâu đậm. Nếu anh ấy thật sự yêu Nghi...

- Anh ấy bảo tình yêu là sự ám ảnh. Có lẽ anh ấy đã nghe Lam nói quá nhiều về Nghi, nên…

Tôi mỉm cười, thấy nhoi nhói. Tôi biết Nghi không phải là đứa hồn nhiên, hay vô duyên. Nhưng ngay lúc này Nghi thật tàn nhẫn, và ngu ngốc nhất là Nghi tin rằng sự tàn nhẫn ấy tốt cho tôi.

- Anh ấy khen Nghi đẹp, một vẻ đẹp làm anh ấy hoang mang…

Tôi cũng biết Nghi đẹp, đẹp như vẽ, còn tôi, những thằng bạn cùng lớp vẫn than phiền một cách thân thiện: “Trời ơi, làm con gái mà cũng bày đặt xấu nữa kìa!” Tôi biết mình không đẹp, không xấu, vẻ mặt đó người ta gọi là nhạt nhẽo. Nhưng mũi tôi cao nên nhìn nghiêng trông rất hay. Đó là ba nói vậy. Năm tôi 18 tuổi, quà sinh nhật của ba là một bộ son phấn. Ba âu yếm ngồi nhìn tôi vừa sung sướng vừa ngượng nghịu tô một vòng son. “Làm con gái phải biết trang điểm, nghe con.” Và nhìn xa xôi ra ngoài cửa sổ, ba lẩm nhẩm đọc : “Em về điểm phấn tô son lại. Ngạo với nhân gian một nét cười.” Không hiểu sao, tôi lại nghĩ đến mẹ Nghi khi ba đọc câu đó, và không hiểu sao tôi tin rằng cả ba cũng đang nghĩ đến bà.

Nghi nói nhỏ :

- Bọn mình sẽ cưới nhau. Mẹ Nghi cũng muốn vậy.

“Tìm một người đàn ông tốt và lấy người đó làm chồng”, tôi biết đó là ao ước lớn nhất của một người đàn bà đầy tổn thương dành cho con gái mình, dù họ mới gặp nhau có ba tuần. Anh có đúng là người đàn ông tốt của Nghi không? Tôi không biết nữa. Sự thú nhận của anh có vẻ như chứng tỏ một tình yêu thật sự, nó làm tôi tiêu tan hết dũng khí chiến đấu, hết khao khát giành giật anh trở lại. Chỉ thấy đau. Tình yêu là sự ám ảnh. Và bây giờ, nó đang ám ảnh tôi, một khuôn mặt xương xương...

Trước khi rời khỏi quán, Nghi ngoái lại : “À quên, hình như ba Lam định cưới mẹ Nghi đó. Biết chưa?” Tôi không hiểu sao mắt Nghi lại có vẻ hân hoan đến thế, như vừa chiếm được người yêu của tôi lần thứ hai vậy.

Còn lại một mình trong Rainy, tôi oà khóc....

****

Rainy.

- Lam à, ba có chuyện quan trọng định bàn với con.

Đây là lần đầu tiên ba xuống Sài Gòn thăm tôi. Tôi mỉm cười.

- Con biết rồi, nếu ba đã quyết định thì
con chúc ba và cô ấy hạnh phúc...

- Làm sao con biết?

Từ lâu lắm, từ ngày ba đọc “Em về điểm phấn tô son lại, ngạo với nhân gian một nét cười”. Từ ngày ba trầm ngâm nhìn người đàn bà quấn chiếc khăn len màu đỏ, lặng lẽ gánh hoa đi ngang nhà, mắt nhìn thẳng, đầu ngẩng cao. Không hiểu tại sao.

Ba nắm chặt tay tôi. Ngày xưa, xưa lắm, khi ba chưa lấy mẹ, khi gia đình ngoại Nghi chưa sa sút và khi mẹ Nghi chưa đi theo một người đàn ông lạ để rồi sa vào vòng lầm lạc. Ngày đó ba yêu, nhưng mẹ Nghi thì không. Còn bây giờ, ba thương. Và mẹ Nghi cần một điểm tựa.

Cũng như tôi, ba phân biệt rõ ràng hai loại tình cảm đó. Tình yêu là gì ? Đó là cảm giác thắt lại khi ta nhìn thấy người ấy, nó vỡ oà một cảm giác yêu thương trong trái tim, lan toả ra từng tế bào, đến tận đầu những ngón tay, nhưng đôi khi nó làm người ta đau đớn. Tình yêu, nó sâu thẳm, nhọn hoắt, và dễ làm tổn thương. Tôi luôn thấy tình thương thì an toàn hơn tình yêu. Tình thương như một mảnh lụa, êm dịu, mượt mà, dễ lan tỏa, và dai dẳng nữa, giống như đêm. Tôi vẫn muốn yêu như là thương, và muốn được yêu như là thương, giống như tình cảm ba dành cho bà ấy vậy.

******

Rainy.

Quán chỉ có hai người. Tôi và một người đàn ông trẻ, áo xanh, cà vạt đỏ với những chấm đen khéo léo...

- Anh cũng đi cà phê một mình à ?

- Phải, ngày cuối năm, người ta cần một chỗ yên tĩnh để suy nghĩ, đúng không ?

- Trông anh thật trịnh trọng. Chẳng ai đi cà phê một mình với bộ dạng trịnh trọng như thế này...

Anh ta nghĩ ngợi.

- Khuôn mặt cô nhìn nghiêng, ly cà phê, có cái gì đó cô đơn, và thu hút nữa...Tôi là hoạ sĩ, hôm nào cô làm mẫu cho tôi vẽ được không? Ồ, cô đừng lo, chỉ khuôn mặt thôi, khuôn mặt nhìn nghiêng và ly cà phê...

Tôi mỉm cười, và tin rằng đấy là nụ cười duyên dáng nhất của mình.

- Tôi hỏi, nếu anh trả lời được thì tôi đồng ý. Cái gì mênh mông, sâu thẳm, và dịu dàng?

- Đêm - Anh ta phá lên cười - Phải không ?

Tôi hốt hoảng, im lặng. Điện thoại cầm tay reo bài Happy New Year...Anh ta liếc tôi, rất nhẹ “Ừ, anh đây, em về rồi hả. Ừ, anh đến ngay ?Anh cũng nhớ em” rồi quay sang tôi, anh ta nói “Tôi phải đi đây. Nếu đồng ý thì gọi cho tôi nhé”. Anh ta đặt trên bàn tấm danh thiếp rồi vội vã bước đi, không thèm ngoái nhìn tôi một lần.

Cái gì sâu thẳm, dịu dàng và mênh mông. Nghi bảo đó là câu hỏi để tìm người yêu của tôi. Thế nhưng từ trước đến nay tôi luôn hỏi nhầm người, cả người trả lời đúng lẫn người trả lời sai. Tôi nhớ tiếng cười của Kiên khi tôi nói đó là Đêm. “Ngớ ngẩn.” Có lẽ tôi ngớ ngẩn thật.

Ông chủ quán người Huế ngồi xuống bên cạnh từ lúc nào.

- Sắp Tết rồi. Cô có về quê không ?

- Phải về chứ bác, có lẽ vài hôm nữa.

- Mai tôi cũng về, chắc ở luôn ngoài ấy.

- Còn Rainy?

- Tôi sang lại cho thằng cháu họ - Ông nói vẻ tự hào - Nó chắc cũng bằng tuổi cô, vừa tốt nghiệp kinh tế đã muốn kinh doanh ngay. Bọn trẻ bây giờ giỏi thật. Nó bảo sau Tết phải sửa sang thay đổi chứ địa điểm đẹp mà để lèo tèo khách thế này uổng quá. Tôi thì không có khiếu làm ăn.

Vậy đó, cả Rainy rồi cũng đổi thay thôi. Tôi chạy xe ra khỏi con hẻm nhỏ, gió lao xao thả xuống vai tôi vài chiếc lá. Có lần, Kiên bảo rằng, Sài Gòn cũng có một mùa rụng lá, đó là khi đoạn đường Lê Duẩn ngang qua công viên 30 tháng 4, ngay vòng xoay nhà thờ Đức Bà phủ đầy lá vàng, chúng vỡ rôm rốp dưới bánh xe. Sài Gòn bỗng trở nên hiền hoà, lãng mạn và thơ mộng hơn bao giờ hết...

Ba nói gì về những chiếc lá khô nhỉ ? Con có thể nhìn thấy chúng trên những cây cao, trên chót đầu của những cành khẳng khiu đều nhú ra một mầm xanh bé tí. Trong vài tháng nữa, mỗi cây sẽ được bao phủ bởi cả một vòm xanh rậm lá, thấm đẫm ánh mặt trời. Không có gì sống động hơn, tràn trề nhựa sống hơn hình ảnh đó. Thế nhưng, rải đầy quanh gốc cây là những chiếc lá khô vỡ vụn, những chiếc lá mùa trước vẫn còn xanh, rồi ngả vàng rực rỡ, bây giờ tan dần vào trong đất. Chỉ một cái nhìn thoáng qua toàn bộ khung cảnh đó, chúng ta nhận ra vòng tuần hoàn của cuộc sống, và một cơ hội luôn luôn tồn tại, cho cái mới, cho sự khởi đầu. Còn chúng ta thì sao ?
Có chăng thời kỳ mùa xuân cho con người ? Hay chúng ta chỉ sống từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc theo một con đường định sẵn? Ta có thể làm mới chính mình như không khí và cây cối ? Ta có thể giũ sạch những thói quen của cách cư xử, của một cuộc đời đã từng tràn trề sức sống nhưng bây giờ không còn sinh khí nữa? Và những kinh nghiệm mà chúng ta chồng chất qua những tháng năm vui buồn có lấp kín đời ta? Đừng để nó lấp kín đời ta, con gái ạ. Ba cũng đã nói với mẹ Nghi như vậy. Hãy bước qua nỗi đau và làm mới chính mình.

Tôi ngẩng đầu lên, chẳng biết mình đang cười hay khóc. Tôi ít nghĩ đến mẹ, thường thì tôi ít nhớ bà, nhưng trong giây phút này tôi lại nhớ. Những con người không bao giờ có cơ hội làm mới chính mình lần nữa. Bây giờ, vào ngày đầu xuân, tôi chạy vòng quanh và nhận ra Sài Gòn đã qua mùa lá rụng, những mầm xanh đang nhú lên ở trên cao và bắt đầu một vòng đời mới, những vòm lá một thời gian sau sẽ hiện ra mới mẻ và xanh tươi. Như Rainy vậy.