My schedule

- Một tách cafe sớm
- Đọc báo
- Lướt web
- Đọc truyện

Tuesday, July 22, 2008

Mùa của hạnh phúc - Nguyễn Lan Anh

Lần 1:

Cô ta ngồi trong một quán cafe nằm sát bên phố Nhà Thờ, đôi mắt lơ đãng. Tôi thờ ơ, ghệch chiếc ghế và thả người xuống. Chiếc cặp đựng tài liệu bị tôi ném phéng lên bàn. Tôi vò tóc rồi châm thuốc. Cô ta không nhìn tôi.

Tiếng chuông nhà thờ thả từng giọt. Nghe không hấp dẫn chút nào. Tôi thích nghe tiếng chuông chùa. Nó không lạnh lùng và lý trí như tiếng chuông nhà thờ, như cô ta. Khi những âm thanh hết vang vọng trong con phố nhỏ, cô ta hỏi: “Cu uống gì?”. A, cô ta thích gọi người khác phái là Cu. “Tôi không uống cafe”. Cô ta thậm chí còn không quay sang nhìn tôi, ngoắc tay: “Em bé - cho chị thêm một sinh tố dưa hấu không đường”. “Sao chị lại gọi cho tôi sinh tố dưa hấu?”. “Vì tôi thích, nhưng hôm nay tôi uống cafe rồi. Cu uống hộ tôi cái sở thích đó”.

Tôi nói: “Cafe có chất kích thích, không tốt đối với một người chưa lập gia đình như chị.

Nhưng, uống nó từ 3-5 ly mỗi ngày, khi già sẽ không bị Parkinson. Hơn nữa, có cụ già sống thọ 120 tuổi nhờ uống cafe”. Nghe đến đó, cô ta cười. Giọng cười cô ta nhẹ, và như có một sự thu hút khiến tôi không cưỡng lại được. Tôi lắng nghe, trong vô số những âm thanh đang hiện diện trên phố nhỏ. Từ quán cóc nơi tôi và cô ta đang ngồi nhìn sang là quán La Place, phía bên kia Nhà Thờ. Nơi đó, mùa đông lạnh giá ấy, tôi và em Hàng Không nhí nhảnh ngồi bên nhau, trên tầng hai ấm áp. Trên bàn, người ta đặt những viên sỏi màu trắng trong cốc thuỷ tinh, và những viên sáp nhiều màu. Em Hàng Không đổ cốc sỏi tãi ra bàn. Và em ngồi xếp thành hình một nhà thờ có những vòm cửa u buồn. Còn tôi ngồi vẽ những con phố ngoằn nghèo, những lá cây đổ bóng…

Cô ta lôi chiếc điện thoại ra, nhắn tin cho ai đó. Tôi ngấm mệt. Công việc của một gã đàn ông thường phải đi cùng sếp tiếp khách, bia rượu, tôi luôn trong tình trạng có hơi men. Tôi nói: “Người lịch sự, không nên mải mê chat chít như thế”. Cô ta nhướng đôi mày: “Gì cơ?”. Tôi rủ cô ta: “Mình ra ngồi phía bậc đá kia đi”. Đó là những bậc cầu thang bước lên nhà thờ. Vào ngày Noel, bao xung quanh đó là chiếc hàng rào sắt có mũi nhọn màu xanh dương chếch lên trời, ngăn không cho dân tình tràn vào, nơi người ta đã dựng lên khung cảnh Chúa Giêsu ra đời, nằm trong máng cỏ và được Đức Mẹ Đồng Trinh bế trên tay. Tôi sinh lúc một giờ sáng ngày 25 tháng 12, nghĩa là khi đã qua thời khắc kỷ niệm tưng bừng sự ra đời của Chúa được 1 tiếng. Sáng 25 tháng 12 nào cũng vậy, mình tôi lang thang, ngắm nhà thờ đứng lặng lẽ, trái ngược với sự nhộn nhạo đông đúc chen lấn nhau trong đêm Noel. Và lúc đó, tôi thường gặm nhấm nỗi sợ hãi khi mình đã thêm một tuổi.

Bọn trẻ con đá bóng trên khoảng hẹp trước cửa Nhà Thờ. Còn chúng tôi ngồi trên bậc đá. Trước mặt, Đức Mẹ đứng lặng hiền. Đôi mắt thánh thiện. Một nguời đàn bà quét rác cặm cụi dọn từng đống lá rơi lăn tăn rải trên mặt đất. “Chị có lạnh không?”. Tôi hỏi và muốn quàng tay ra sau, ủ ấm cho cô gái ngồi bên tôi. Cô ta mặc chiếc áo cổ hình trái tim màu hồng. Mái tóc dài thả tự nhiên. Chỉ nhích vào chút nữa, là tôi có cảm giác sát bên nhau. Bóng tối trùm lên chúng tôi. Lũ trẻ không đá bóng nữa. Phía trên những nhà hàng, đèn lấp lánh trong đêm hào nhoáng… “Cu kể chuyện gì đi…”. Bố tôi là một quân nhân đáng kính. Ông đi suốt. Mẹ tôi làm trong một viện nghiên cứu. Và tôi, làm bạn với bốn bức tường. Khi đó, những cuốn sách của bố mẹ tôi trở thành một nguồn giải trí bất đắc dĩ. Tôi đọc tất cả những gì có trên giá sách. Kể cả những cuốn sách về tâm lí, về “chuyện của người lớn”, vốn rất cần cho công việc của mẹ tôi. Bố mẹ tôi hẳn cũng không thể ngờ, tôi đã đọc những cuốn sách đó…

Chuông nhà thờ điểm kinh coong một hơi dài… Tôi nói về Dế Mèn Phiêu Lưu Ký và Tôn Ngộ Không. Chúng tôi cười phá lên, bất chợt, tôi đưa tay lên xoa tóc cô ta, như với một đứa nhỏ. Dễ chịu, và thích thú. Khi đưa cô ta từ nhà thờ về nhà, tôi nhìn theo và nhắn một tin: “Xin tha lỗi vì những ý nghĩ không tốt đẹp”. Cô ta nhắn lại: “Ồ, thế có cái gì đó đen tối à?”. Cô ta làm sao biết được đàn ông gần gũi đàn bà, gần gũi tâm hồn, lại có thể nói thoải mái, kể hết mọi chuyện… Sao cô ta lại không hiểu điều đó?

Lần 2:

Khi tôi biết tên cô ta, tôi nói: “tên của chị xấu nhỉ, nó chẳng nói lên được điều gì ngoài việc luôn phải đứng đầu sổ khi đi học”. “Tên của tôi đẹp. Nó sở hữu ánh sáng của trí tuệ. Hơn nữa, nó nói lên cả dòng họ vang danh (mỗi tôi, chưa làm được gì cho xứng đáng)”. Cảm ơn chị đã nói chuyện với tôi. Tôi vốn ít khi nói chuyện được với ai dài như thế. Nhất là với người hơn tuổi. Tôi luôn có một đống “em gái” bao quanh. Và thường, tôi ngồi ngắm sự ngây ngô tinh quái, thực dụng của các cô em. Cuộc đời không ra gì, nhưng tôi vẫn thích sống, thích tự do, thích trải nghiệm sự điên rồ, thích đọc sách, đá bóng, nhạc, và yêu đương… Tôi thấy cuộc đời đâu đến nỗi quá tệ. Tôi cố gắng không chán đời nữa.

Cô ta nói ngày hôm nay phải đi tham dự một triển lãm sắp đặt. Phố H.I tắc nghẽn. Gallery G hàng ngày thưa thớt, ấy vậy mà mấy tầng nhà bỗng chật căng, lúa, rơm rạ trải quanh lối đi. Những ly rượu sắp thành hàng. Ngột ngạt. Những gương mặt quen thuộc thường xuất hiện trên màn hình, trong những cuộc hội họp. Tóm lại, rất VIP. Cô ta nhắn tin đã thoát ra khỏi chốn đông đúc, nơi trỗng rỗng không ai nhớ đến ai. Giờ cô đang trên đường vào Hà Đông tham dự một cuộc liên hoan văn nghệ Phật giáo. Tôi bỗng cồn cào. Cô ta đi một mình. Tôi đang cô đơn và thêm chút điên cuồng. Cuộc tình với cô gái Hàng Không đã kết thúc quá lâu.

Khoảng trống làm tôi không chịu đựng nổi. “Tôi muốn chị nằm bên tôi…”. Tin nhắn đã chuyển đi. Tôi không rõ mình có làm chủ được mình hay không. Tôi xin cô ta cho tôi được vào đón. Đó là ngôi chùa nằm trong thị xã Hà Đông. Cô ta mặc một chiếc áo nâu cổ tàu. Tôi đứng cạnh người đánh đàn, lặng lẽ ngắm cô ta. Bên cạnh cô ta là một cô gái cũng rất trẻ, mặc bộ đồ màu nâu sồng. Nhìn nét mặt hoan hỉ của các nhà sư, của các Phật tử, tôi thấy vui. Tiếng niệm Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát vang lên. Lòng tôi trùng lại. Lạ lẫm. Cô ta thành kính chắp tay niệm Phật nhưng vẫn không quên nhắn tin cho tôi. Cách nhau có vài bư�
��c chân, nhưng chiếc điện thoại vẫn là phương tiện hữu ích: “Cu có muốn ở lại hay về? Tôi xong việc rồi”. Tôi lạnh lùng: “Về!”.

Tôi chở cô ta đằng sau, lòng chợt nhớ đến cô em Hàng Không. Con đường lạnh, hoang vu. ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn đường phủ xuống thảm cỏ ven đường. Tôi biết, cô ta cũng cô đơn. “Đôi mắt của chị buồn”. Cô ta im lặng. “Chị tặng hoa cho sư cô nào thế? Người quen của chị à?”. Cô ta bỗng chốc cởi mở: “Không, tôi vốn là đệ tử của Phật. Thầy tôi đang giảng dạy ở ngôi chùa này”. “Chị định đi tu?” Cô ta cười: “Ngốc ơi, tưởng đi tu là dễ hả? ở ngoài đời, anh bị luỵ vì tình cảm, không chịu đựng nổi, anh mới nghĩ đến chuyện tu hành, đó là một sai lầm. Đừng nghĩ tôi đến chùa, là tôi định đi tu. Dù đã có lúc, tôi tự cạo trọc đầu mình”. “Tại sao?”. Cô ta nhất định không nói gì. Đến đầu ngõ, cô ta xuống xe, bàn tay nhỏ nhắn vẫy chào và nói “Bye nhé, đi cẩn thận”. Tôi nhìn theo, không hình dung nổi, nếu đầu cô ta trọc lốc, trông cô ta sẽ thế nào. Tôi gửi cho cô một tin nhắn: “Tôi xin lỗi, tôi không hiểu chị. Mong chị đừng gặp những thằng tồi tệ như tôi”.

Lần 3:

Lại qua một ngày chỉ toàn đối mặt với những hợp đồng thanh toán, những con số đòi hỏi sự chính xác và đống hàng hoá khi sử dụng chúng sẽ bốc lên một loại mùi đặc trưng… Lại một tối thứ bảy trống rỗng đến điên cuồng. Tôi sợ chúng, những buổi tối của sự ngơi nghỉ, của yêu đương. “Chị đang ở đâu?”. Cô ta trả lời với một giọng bình thản: “Tôi ở nhà”.”Tôi đến đón chị”.

Cô ta lên xe. “Trông chị như một đứa trẻ” - Tôi nhận xét. Cô ta nói khi tôi nhắn tin hai chữ “Muốn chết” là lúc cô đang đọc quan niệm của một triết gia Ấn Độ về hạnh phúc: “Hạnh phúc là Sukha, đó là trạng thái giống như một bánh xe mà trong đó mọi sự đều ăn khớp với nhau: vành xe, ổ trục và các đũa xe đều tốt và nằm đúng vị trí, hoà hợp với các thành phần khác do đó mà bánh xe chạy trơn tru. Còn đau khổ là Dukha, đó là tình trạng một bánh xe trục trặc vì có những thành phần hư hỏng hay không ăn khớp với những thành phần khác”. Tôi cho xe chạy vòng vòng quanh thành phố. Gái đẹp nhiều, mắt tôi nghếch lên nhìn họ. Rồi nghĩ tới người đang bên cạnh tôi. “Tôi không quan tâm nhiều đến các khái niệm. Tại sao chị nói mỗi ngày đều mua một viên thuốc ngủ, và không uống?”. Cô ta không nói gì. Tối nay, đôi môi cô ta gợi lên một màu hồng nhàn nhạt, tất cả như đang chìm đắm, lơ lửng cùng đôi môi kia. Tôi chợt muốn nắm lấy tay cô ta…

Cô ta nói, mình đến quán nào đó để tôi uống nước cho rã hơi men. Tôi phun nước ra ngoài, ướt cả ống quần. Những người khác quay lại nhìn tôi. Mọi người nhìn gì? Cô ta đưa cho tôi chiếc giấy mềm lau quần. Tôi uống cạn cốc nước lạnh, và lại phun nước ra ngoài. Mặt tôi đờ đẫn, tại sao lại là cô ta đang ngồi bên tôi? Đi thôi, ngồi đây chán lắm. Tôi quyết định. Cô ta không nói, trả tiền, và ngồi đằng sau tôi. Tôi lao xe đi trong đêm. Màn sương mù làm cho tôi có cảm giác mình đang đi trong hư ảo. Phía trước kia, ẩm ướt, lạnh băng, và lòng tôi như đang muốn khóc. Tôi không biết. Có thể tôi điên, nhưng tôi thèm một hơi ấm. “Chị à, tôi đưa chị đến nơi tôi và người con gái đầu tiên của tôi. Chị đồng ý không? Nó hơi xa nơi này, nhưng tôi vẫn nhớ… Chị đừng từ chối, đi với tôi, tôi cần. Tôi không làm gì, chỉ nói chuyện thôi”. Cô ta cười nhẹ. Chúa ơi, nếu tôi biết được cô ta nghĩ gì. Cô ta bảo: “Sao lại là lời đề nghị khiếm nhã thế? Lúc nãy nói chưa đủ à?”. “Không, nhưng tôi thích chị gối đầu lên cánh tay phải của tôi”- giọng của tôi trở nên tha thiết. “Về đi, quay xe lại đi” - cô ta giục… Tôi làm ngơ như không nghe thấy gì.

Xe đã lao vào ngõ, con ngõ nhỏ có các nhà nghỉ. Tôi lao thẳng xe vào trong. Nắm tay cô ta đang tần ngần, tôi nói, “Lên đây”. Cầu thang thứ hai, tôi thấy cô ta nhắn tin gì đó. Cô nói: “Vừa trả lời một tin nhắn, tôi nói đang làm một nhiệm vụ lạ lùng, đó là lắng nghe và thị sát các nhà nghỉ”. Cô ta hài hước thật. Căn phòng nho nhỏ, đệm trắng muốt. Trên màn hình, có trận đá bóng giữa ChelseaBolton. Cô ta ngồi trên ghế, chuyển kênh xem chương trình văn học nghệ thuật. Tôi nhận thấy những bóng người đang chuyển động trên tivi kia, và những sợi tóc của cô ta, tưởng như nổi bật nhưng thực ra rất mờ nhạt. Tôi nói, lại đây, đừng xem gần thế, hỏng mắt. Cô ta không nói gì. Cánh tay cô ta trắng, đôi môi hồng lên trong đêm. Tôi tiến lại gần, chạm tay vào cô ta. Một luồng điện rạo rực bùng lên.

Cô ta đẩy tay tôi ra, nói: “Được rồi, lùi ra, tự tôi đi được”. Tôi nằm, còn cô ta ngồi bên phải. Tôi đã tắt tivi, tắt đèn. Trong căn phòng, chỉ còn sự lặng im và chấm xanh của đèn máy điều hoà. Cô ta hầu như không có một cử động, ngay cả hơi thở. Tôi để tay mình lướt lên chân cô ta. Môi tôi nóng. Hơi thở, và lời nói như từ đâu tới, chúng bật ra, tôi cũng không biết mình nói gì. Tay tôi lần lên ngực cô. Nhưng, cô đã chặn lại, nói: “Làm gì thế?”. Tôi níu cô ta bảo nằm xuống đây, nếu không chị sẽ rất mỏi. Tôi phải dùng lực bắt cô ta nằm bên tôi. Nhưng người đàn bà này không hề ngoan ngoãn. Sao không thư dãn đi. Sao chị cứ đề phòng tôi thế? Tôi vuốt mái tóc cô. Tôi gục đầu bên chân cô, một lúc lâu như vậy, hít thật sâu những nguồn cảm xúc trào tới. “Tôi vẫn chưa được nhìn chị, khoả thân cho tôi nhìn đi”. Cô ngạc nhiên, ánh mắt bắt đầu sợ hãi, hỏi tôi: “Làm sao thế, có điên không?”. “Nào, đừng sợ hãi thế. Có gì đâu…”- Tôi mơ hồ. Cô ta tát tôi, thì thào nhưng cương quyết: “Tỉnh lại đi, điên à?”. Tôi quờ tay tìm bàn tay của cô ta đưa lên trái tim tôi, nó đang đập thật mạnh. Cô ta không từ chối, để yên, và hai đứa lắng nghe. Tôi nâng tay cô đưa lên môi hôn. Tôi như một đứa trẻ suốt bốn năm nay mới được sổ lồng một lần. Tôi rất thoải mái. “Cảm ơn chị. Hãy cứ thế này, để cuộc đời có ý nghĩa hơn. Chị tha lỗi cho tôi nhé. Tôi sao thế này, tôi đốn mạt thật..”-. Tôi lắp bắp trong cơn mê muội.

Lần cuối cùng, tôi được nhìn sát mặt cô ta, đó là khi tôi quay lại. Cô ta ngồi đằng sau xe tôi, nhưng đôi mắt nhắm lại như người đang ngồi thiền. Cô ta mải suy nghĩ - không nghe tôi nói sao? Tôi nói tha thứ cho tôi. Tôi xấu xa. Đừng suy nghĩ. Trời mưa lạnh. Đường về sao dài quá. Mình sao không nói với nhau, cứ im lặng ho
ài, tôi không chịu được tôi. Con ngõ trơn lầy lội, cô nói: “Cu đi cẩn thận”, rồi đưa bàn tay nhỏ vẫy vẫy. Tôi ngẩng mặt, đón nhận những hạt mưa. Có lẽ nào, mối quan hệ này của chúng tôi, lại qua nhanh như gió thoảng.

Ngày lại ngày, và tôi chợt nhớ lại khi tôi viết lên lòng bàn tay cô ta hai chữ Hạnh Phúc. Cô ta nói có hai ý nghĩ: 1: Bạn khát khao cái mà ai cũng muốn; 2: Điều này hơi chua chát. Cô nói có đêm, cô thiếp đi trên ghế trong cơn mệt mỏi. Cô kiệt sức. Mong có một người nào đó, hỏi cô muốn ăn gì? Uống một chút nước không? Rồi áp lên môi cô một hơi nóng của tình yêu. Cô thấy mình hèn kém hơn cô bé bán diêm. Cô bé đó, chịu khó đi tìm hạnh phúc trong ảo tưởng. Trong giá lạnh, cô bé run rẩy đánh từng que diêm, để ánh lửa bùng lên trong giây lát, những gì cô ước mơ. Còn cô, cô không còn sức lực tha thiết nữa. Tất cả những ý nghĩ thoáng qua để rồi cô chỉ cười mỏi mòn.

Cô nhỏ - tôi và cô - chúng ta đều là những người cô đơn, chơi vơi trong cuộc đời. Cái gì là khó, cái gì là dễ? Khó hay dễ không quan trọng bằng việc tâm niệm phải làm cho mình hạnh phúc. Tôi nói với cô như vậy. Chúng ta mới có ba lần gặp nhau. Tôi đã có thể sai với chị, nhưng tôi hoàn toàn đúng khi gặp chị. Make me happy, please!* Tự nhiên, tôi lại muốn cười phá tan băng giá mùa đông. Tôi muốn gào thật to để cảm nhận những hơi thở ấm áp len lỏi giữa những cơn gió se sắt. Mùa đông - mùa của sự lười biếng và cô độc. Mùa của hạnh phúc.

Friday, July 18, 2008

Quán rượu mùa lá rơi - Bích Khoa

Minh có gương mặt hơi xương, mắt dài và đen như vẽ. Các đường nét trên mặt nếu phân tích cho kỹ thì không thể gọi là đẹp, nhưng lại hòa hợp một cách hiếm có. Bàn tay trắng xanh, với những móng tay cắt gọn, sạch sẽ, luôn có vẻ như đang sẵn sàng đi đến một nơi nào đó trang trọng. Dáng người cao và hơi gầy. Kiểu gầy guộc không gợi nên cảm giác yếu đuối, mà tạo sự uyển chuyển lười nhác trong từng chuyển động. Tôi nghĩ mình đã có được cái cảm giác "tình yêu từ cái nhìn đầu tiên" khi gặp anh ta, hay một cái gì tương tự như vậy, chẳng hạn, hóa chất não hay nhịp dao động sinh học tương đồng.

"Vậy là cô không thể đến trước sáu giờ".

Nói tóm lại, Minh đẹp. Anh mỉm một nụ cười dễ dãi và hiền lành, nụ cười của những người có cái vẻ sẵn sàng chấp nhận bạn cho dù bạn là ai, rất dễ gây thiện cảm.

Tôi ngồi đó, trong quán rượu nhỏ vào một ngày tháng tư. Trời oi ả dù đã hơn bốn giờ chiều. Minh đặt hai ly cà phê lên bàn, một cho tôi, một cho người đàn ông ngồi trước mặt tôi, Huân, mái tóc rẽ ngôi rất gọn và đôi giày tây sáng loáng. Tôi nghe mùi nước hoa thoang thoảng. Anh ta đang cầm hồ sơ xin việc của tôi với những ngón tay lỏng lẻo, như thể người ta bóc một mẩu giấy da đẫm nước trên đầu các ngón tay.

"Tôi có tiết ở trường đại học đến tận năm rưỡi. Mà từ đó đến đây cũng khá xa".

"Vậy cũng được". Anh ta nói, vẻ dễ chịu. Có lẽ thật tình câu hỏi đặt ra ngay từ đầu cũng chả để làm gì.

Minh đặt cà phê xuống xong, ngồi lại, nhìn anh ta với vẻ trìu mến không thể che giấu. Quanh cả hai tỏa ra một thứ xúc cảm vô hình nhưng lại mạnh mẽ đủ để đánh bật ánh mắt của bất cứ ai muốn thách thức bằng một cái nhìn soi mói. Hóa chất não vừa mới tiết ra của tôi ngay lập tức bị trung hòa bởi một thứ gì khác, mà tôi cũng chả biết là chất gì.

Quán rượu bắt đầu mở cửa sau bảy giờ rưỡi. Nhưng đến tận tám giờ khách khứa mới lục tục kéo đến. Nói kéo đến chứ thực ra cũng chả có mấy người. Một quán rượu khuya nhưng không có nhạc sống. Đơn giản chỉ là điểm đến của những kẻ chán đời hoặc những cặp tình nhân chán nhau. Huân chẳng để tâm gì đến. Có vẻ như việc là chủ quán rượu và việc có trách nhiệm phải chăm lo phát triển kinh doanh là hai việc hoàn toàn chẳng liên hệ gì nhau, ít nhất là trong suy nghĩ của anh ta. Thích thì đến, ngồi uống ly cốc-tai, vờn vịt vài câu, rồi biến đi trong làn khói thuốc còn lẩn quất. Buồn thì ngồi lại, im lìm chẳng nói gì.

Minh nhìn Huân với vẻ lơ đãng, nhưng không bao giờ rời mắt khỏi anh ta. Những khi vắng khách, cả hai ngồi trong một góc tối của quán. Minh dựa đầu trên vai anh ta dịu dàng. Tôi ngồi chống cằm nơi quầy, nghe giọng buồn không đâu của Diana Krall phát ra từ chiếc loa nhỏ. Những buổi chiều tối thế này gợi một cảm tưởng thanh thản, dù giả tạo, nhưng dễ chịu khiến không thể chối từ. Tôi vừa ngắm mưa băng qua khung cửa kính thành hàng trăm dòng chảy nhỏ, vừa thỉnh thoảng đưa mắt liếc nhìn hai người đàn ông trong góc phòng. Bộ ba kỳ lạ yên bình trong một quán rượu nhỏ, dường như một loại ốc đảo tách biệt hẳn với mọi thứ ngoài kia.

Phía bên đó, từng dòng người nối nhau đi, vội vàng tất bật hay từ tốn chậm rãi. Trước mắt tôi, làn mưa rơi và mưa chảy qua kính cửa làm nhòe đi những đường nét rõ ràng của từng người trong số họ.

***

Minh bảo, tôi là người làm ở đây lâu nhất từ trước đến giờ. Tôi cười khiêm tốn, cũng chẳng tự hào gì. Có lẽ chẳng qua tôi là người duy nhất chấp nhận mọi sự diễn ra ở đây một cách tự nhiên. Cũng chả hiểu tại sao. Đó là một đặc tính. Không phán xét, và không cố gắng tuyệt vọng để đạt tới một mục tiêu to lớn hay nhỏ bé nào. Không biết là đặc tính tốt hay xấu.

Một đôi lần, khi chúng tôi cùng làm việc trong quầy bar nhỏ, khuỷu tay của tôi và Minh chạm nhau. Và tôi cảm thấy ngay chỗ va chạm ấy một cảm giác ấm nóng chạy khắp cơ thể. Da Minh mềm và êm, hoặc cũng có thể tôi chỉ tưởng tượng như vậy. Nhưng không ít lần, tôi nhận ra mình đang cố hình dung, từ những thông tin về làn da nơi khuỷu tay, đến những chỗ da nơi khác, gương mặt chẳng hạn, sẽ như thế nào? Như thể người ta cố phục hồi cấu trúc cơ thể của một con khủng long từ một mẩu xương tí xíu.

Những ngày gương mặt Minh râu ria lởm chởm, anh có một sự kết hợp khá kỳ lạ giữa vẻ buồn bã dịu dàng và vẻ già dặn ở người từng trải. Chúng tôi thường trao đổi với nhau những câu chuyện vô hại, không đâu ra đâu, không về một người cụ thể nào. Vừa phụ tôi mắc các ly thủy tinh trên giá, Minh vừa hỏi:

"Việc học ở trường của em thế nào?".

Tôi nhún vai, trả lời theo kiểu tạm bợ:

"Cũng tàm tạm".

Anh mỉm cười.

"Còn anh, ngoài thời gian ở quán, anh làm gì?".

"Thì cũng tàm tạm".

"Đó đâu phải là một câu trả lời".

Minh lại cười nhẹ:

"Vậy em thích một câu trả lời thế nào?".

Tôi ngẫm nghĩ trong vài giây:

"Ừ, có thể anh không có việc gì khác ngoài việc trông coi quán rượu". Tôi mân mê một chiếc ly trên tay. "Nhưng đại khái, anh có thể trả lời những thông tin về bản thân như người ta vẫn thường nói".

"Tức là...".

"Đại loại, anh thường xem gì, đọc gì, thích ăn gì, thích đi đâu...".

"Là... tự bạch ấy à?".

"Đừng dùng từ đó, nghe buồn cười thế nào... Nhưng... đúng là thế đấy".

Minh xoay người, tỳ hai khuỷu tay lên quầy, đầu ngửa ra sau nói nho nhỏ với một giọng bâng quơ:

"Ờ, không có gì... Anh chẳng làm gì đặc biệt...".

"Không thích ăn món gì nhất à?".

"... Ờ... ".

"Không có nơi nào anh thích đến nhất à?".

Im lặng.

"Anh không đặc biệt thích một loại nhạc nào sao?".

"Ờ... không.. Anh không có sở thích gì đáng nói... ".

Dừng một chút. Minh thở dài...

"Ờ... Không có gì đáng kể... ".

***

Có lẽ, thỉnh thoảng, trong những lúc không chủ ý, tôi hay nhìn Minh chăm chú, với một cảm giác lơ mơ. Đầu tiên, giữa chúng tôi bỗng có một khoảng cách hơi kỳ cục. Như
ng dần dần, anh đã có cái vẻ dễ chịu, vui thích khá rõ khi được một đứa con gái trẻ mê mẩn một cách không giấu diếm. Vả lại, tôi thấy cũng chả cần giấu diếm, vì tôi không mong muốn một điều gì rõ rệt. Nhiều lần Minh đặt tay lên đầu tôi, vuốt ve như vuốt ve một con chó nhỏ, và tôi thấy một cảm giác dịu dàng.

Những lúc ấy, có lẽ mặt tôi mang một nét ngớ ngẩn thấy rõ. Khi ai đấy luôn phải bận tâm về một suy nghĩ nào đó trong đầu, thì cũng có cái vẻ không sáng suốt đó.

Tôi không ngại lắm chuyện này. Tôi đã chứng kiến vẻ mặt đó của Minh. Nó gây ra một cảm giác vừa buồn bã vừa hả hê. Một sự pha trộn mâu thuẫn. Không thể hiểu được vì sao.

Huân đến vào một buổi chiều trời mưa âm u, với những cơn gió mạnh, vào khoảng sau bảy giờ. Khi đó tôi vẫn đang dọn dẹp chuẩn bị mở cửa. Anh ta ló ra từ cửa chiếc xe hơi trắng vẫn thường đi, kéo theo một cô gái tả tơi vì gió. Cả hai ùa vào quán, đem theo cơn lốc ngoài trời cùng những hạt mưa lạnh buốt. Không khí ấm áp trong quán dường như cũng bị đông cứng theo họ. Một vài chiếc lá theo gió cuốn vào mỏi mệt nằm bệt lên sàn nhà, vốn vừa được lau dọn xong, một cách suồng sã và trâng tráo. Huân đảo mắt một vòng quanh quán, như thể kiểm kê tài sản, rồi thở dài, với một vẻ ủ ê mệt mỏi, ngồi phịch xuống ghế bành.

"Minh, đem cho anh một cái gì nóng nóng".

Im lặng. Tôi liếc nhìn Minh. Anh đang có cái vẻ mặt kỳ lạ. Tôi đành đi lấy cà phê.

Huân có dáng vẻ của một anh chàng giàu có, với những đồ chưng diện nho nhỏ dễ ưa. Trên ngón tay anh ta lần này có thêm chiếc nhẫn vàng. Cô gái đi cùng cũng rõ là người biết phục sức. Cô khá đẹp, nhìn chúng tôi với vẻ thờ ơ, vuốt vuốt những giọt nước mưa đọng trên tóc. Mái tóc uốn đắt tiền. Cô ngồi xuống cạnh Huân, rút từ trong ví da ra đồ trang điểm để dặm lại son phấn. Vẻ chăm chút sắc đẹp có một cách thức rất trang nhã, như thể đó luôn là một việc tự nhiên giống người ta chỉnh lại cà vạt. Họ gộp lại thành một cặp tình nhân đẹp đôi.

Minh đốt một điếu thuốc, tôi nhận thấy bàn tay anh run run.

Huân cau mày.

"Đừng hút. Châu không thích đâu".

Không gian trong quán giờ đây dường như trở nên quá chật chội cho một làn khói thuốc. Tôi chạy đi mở cánh cửa kiếng.

Một làn gió lốc ào tới, cuốn theo một trận đầy lá rơi.

***

Trời đã vào khoảng cuối tháng tám. Thành phố không có mùa thu, nên tôi không biết nên gọi đây là mùa gì. Bầu trời có một vẻ sầu muộn khó gọi tên. Không gian chìm trong màu đỏ của hoàng hôn, như thể một điều gì đang tàn úa.

Minh có một vẻ thờ ơ, anh ngẩng nhìn trời đang tối dần.

"Anh quên bảo với em, hôm nay mình đóng cửa sớm".

Tôi ngẩn ra:

"Sao thế anh?".

Minh im lặng, không trả lời. Và tôi thì cứ ngớ ra không biết làm sao cho phải.

"Tối nay em rảnh chứ?".

Tôi so vai:

"Đằng nào em chẳng phải làm việc. Em đâu có kế hoạch gì đặc biệt".

"Ờ, phải". Minh có cái vẻ ngơ ngẩn của người vừa nhận ra một việc hiển nhiên. "Hay em ở lại. Đóng cửa đi. Anh em mình uống tí gì với nhau".

Tôi treo bảng đóng cửa. Và anh đi pha một cái gì đó. Chẳng hề có cảm giác khác lạ. Quán cũng chỉ như những ngày vắng khách. Không gian im ắng, và tôi nghe tiếng đá lắc nghe lanh canh. Minh mở một đĩa của Keiko Lee.

Tôi chọn cho mình một ghế nệm thật êm. Đốt cây nến vẫn để sẵn trên chiếc bàn kính. Bản nhạc nghe ngang ngang, lâu lâu giọng ca sĩ nghe như đang cười gằn một cách hằn học. Minh đem đến hai ly Margarita.

"Em biết không? Điều hay của món này, là dù pha chế có tồi, thì lớp muối quanh miệng ly cũng có thể làm tê mất khả năng nhận biết ở đầu lưỡi".

Tôi cầm lấy ly, hơi ngại ngùng:

"Thế ạ?".

"Ít ra thì anh cũng nghĩ thế".

"Hôm nay... dịp gì thế ạ?".

"Sinh nhật anh".

"À...". Tôi bối rối. Không biết nói gì hơn. Đành chăm chú quan sát cái ly. Có một màu xanh trộn lẫn trong ánh đỏ của đèn, trông khá đẹp mắt.

Chúng tôi ngồi nhắm cốc-tai và ngắm bầu trời ngoài khung cửa. Trong bóng tối, nó dần chuyển sang một màu đỏ sẫm.

"Chắc là sắp có cơn mưa trái mùa". Minh bình luận. Anh xoay xoay thân ly giữa hai ngón tay.

"Anh Huân... không tới ạ?".

Im lặng.

"Không... Chắc là không".

Minh đi lấy thêm vài chai bia. Tôi cũng không phản đối. Xong một chai, tôi cầm lấy một chai khác. Còn gì dễ chịu bằng buổi tối nghỉ việc, ngồi uống với anh. Tôi thấy vui vẻ, thoải mái, hết hẳn cảm giác bồn chồn. Sự buồn hay bất đồng gì nơi anh như một thứ chẳng ăn nhập gì đến tôi.

"Cô gái hôm trước, hẳn là bạn gái anh Huân?".

Minh cười nhếch môi, với một vẻ độc địa ít thấy biểu lộ:

"Đáng gì. Trước giờ vẫn thế mà. Đến rồi đi cũng nhiều lắm".

"Nhưng lần này có lẽ là thật".

"Thật thế nào?".

"Em thấy nhẫn đính hôn".

"Đính hôn đấy?".

"Đính hôn thật mà. Chính vì thế mà em bảo là thật đấy". Tôi cãi, đã chìm trong một tình trạng cứng đầu hoàn toàn thiếu tự chủ. Minh im lặng nhìn tôi. Rồi anh phá ra cười.

"Lại đây cô bé".

Minh giang cả hai tay, kéo tôi băng qua chiếc bàn. Một ly rượu ngã lăn suýt thì bể tan tành. Tôi được kéo phịch ngồi lên người anh. Tôi để mặc. Vì đã đủ uể oải và chán chường. Và vì ngồi trong lòng Minh, hẳn là cảm giác dễ chịu.

Tôi ngồi yên, mặt áp vào ngực áo Minh. Chiếc áo sơ mi mới thay vẫn còn thoảng mùi nắng. Tôi hít đầy một cảm giác ưa thích, lảng vảng tí mùi bia, nhưng không có mùi nước hoa kia lẩn quất. Tôi tiếc là không còn đủ tỉnh táo để có thể lưu nhớ tất cả những cảm giác lúc này.

“Em thì biết gì”. Anh nói bằng một giọng lải nhải. "Mà dù có thế đi nữa, cũng sẽ chẳng có gì đặc biệt. Mọi chuyện sẽ vẫn cứ như cũ".

"Vẫn cứ như cũ, nghĩa là...".

"Nghĩa là không cô nào có thể xen vào giữa anh và Huân".

"Nghĩa là...".

"Cô vợ ấy không thay đổi điều gì hết".

"Chắc thế à?".

"Chắc chắn". Minh cười gằn. "Đã được thỏa thuận rồi".

"Anh...".

Gật đầu.

"... được anh Huân... ?".

"Đã hẳn".

Ồ, một chuyện tình tay ba. Một người vợ đẹp, sang trọng, cộng thêm phẩm chất tuyệt vời là vô tư và hồn nhiên. Một anh người tình trái khoáy của một quý ông lịch lãm.

"Hay lắm. Vậy ta cùng nâng ly".

Đêm hôm ấy, tôi ngủ vùi trong lòng người đàn ông tôi yêu.

Nhưng quán rượu ấy, căn phòng ấy, lẫn trái tim ấy,
đều thuộc về một người đàn ông khác.

***

Ngày hôm sau, rồi ngày hôm sau nữa, Minh vẫn không đến. Phát hoảng vì không thể lo liệu mọi việc một mình và cũng không biết nên làm sao, tôi gọi cho Huân.

Anh ta đến nhanh như một cái chớp mắt. Gương mặt có vẻ gần như hốt hoảng. Nhưng rồi anh ta bình tĩnh ngồi vào bàn, hai tay di di thái dương.

"Lấy cho anh ly cà phê".

***

Không còn lý do gì để ở lại đó, tôi xin nghỉ việc. Lẩn quất đâu đó, tôi thấy mình thỉnh thoảng có cảm giác muốn tìm lại Minh. Nhưng tôi không biết anh ở đâu. Trong suốt thời gian ở cạnh anh, tôi đã không bao giờ hỏi tới điều đó.

Ngày hôm đó, khi nhìn Huân ngồi bên ly cà phê với một vẻ bình tĩnh đáng ngạc nhiên, tôi chợt nhận ra một điều: anh ta đã ngồi lâu hơn thường lệ. Rất lâu. Khi ấy, thật lòng tôi rất tò mò muốn biết, mối quan hệ giữa hai người đã kéo dài trong bao lâu. Tôi không biết rằng Huân có hiểu được mối tình kia là độc nhất, trọn vẹn, đòi hỏi một sự chiếm hữu hoàn toàn. Và, tôi muốn kể lại cho Huân nghe cảm giác kỳ lạ mà tôi vẫn có khi ở cạnh Minh, sự tôn sùng một sinh thể đẹp đẽ trộn lẫn trong sự chán ngán một thứ đơn điệu và tẻ nhạt. Minh, cuộc đời anh ta không có gì, không làm được gì, không đáng kể gì. Anh ta không có gì đáng kể ngoài tình yêu dành cho Huân. Anh ta không muốn có điều gì đáng kể ngoài tình yêu dành cho Huân.

Nhưng tôi đã không nói gì cả. Nó quá ngớ ngẩn để có thể nói ra thành lời.

***

Quán rượu thành ra bỏ không. Đôi lần đi ngang, tôi có dừng lại. Đứng trên bậc thềm lạo xạo đầy lá rơi, tôi dành một phút nhìn cánh cửa khóa kín. Một lần nữa, căn phòng bên trong đó lại như một thứ ốc đảo lạ lùng không cách gì xâm phạm, tách biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Liệu sau cánh cửa, có chăng Minh đang đứng sau quầy, tay giơ cao ly Magarita, với một nụ cười dễ dãi và hiền lành, sẵn sàng đón nhận dù tôi là ai.

Nhưng lần này, tôi đã ở phía bên kia ốc đảo.

Friday, July 11, 2008

Nỗi lòng sa mạc - Trần Anh Thư

I.

Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ
Ðường dài hun hút cho mắt thêm sâu.
Mưa vẫn hay mưa trên hàng lá nhỏ
Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua

Chiều vàng, vàng như phiến lá úa, như tấm ảnh cũ kỹ bị phủ một lớp giấy kính ngả màu. Khung cảnh ảm đạm dễ làm kỷ niệm bật khóa hộp rương nơi chúng bị nhốt để ùa trở về. Ô cửa sổ hình chữ nhật đưa ánh nhìn của tôi đến bụi hồng trước mắt Rồi bất chợt, cũng khung hình ấy lại biến thành một tấm phim với muôn vạn cánh cửa mở hé mời mọc. Từng bóng hình nhạt nhòa lướt nhanh trước mắt. Tôi thấy mình tách rời với thực tại, đối mặt với quá khứ, một hiện thực đảo ngược như chiếc bóng trong gương, và dĩ vãng nhập nhòa trước mặt.

Bỗng dưng tôi cảm thấy hoang mang. Một kỷ niệm không tên bay vờn trước mắt. Tôi lắc đầu xua mạnh. Những hình ảnh huyền ảo đang bám víu, hòa nhập vào khung cảnh quanh đây.

Chiều hoang! Một buổi chiều vàng vọt phủ xuống khu phố bé nhỏ. Lời ca từ chiếc máy hát buông từng ô tròn xoáy hồn tôi vào một khúc điệu tê tái. Ngoài kia, sự yên tĩnh kéo dài. Chỉ hiếm hoi bị đứt quãng bởi một chiếc xe lướt ngang, hay bởi xâu chìa khóa khua vang trong túi người bộ hành.

Tôi đến thăm em với tâm trạng không vui. Không khí khô khốc buổi giao mùa làm tôi bứt rứt. Gần đây, một sự trông đợi không tên lại quay về phá vỡ sự bình yên trong tôi.

- Anh làm sao thế? Câu hỏi của em kéo tôi trở về thực tại.

Tiếng gọi của người con gái đường đột, vỡ òa giữa bầu không gian tĩnh mịch giống một ngày oi bức chợt trời đổi gió trút mưa như thác đổ. Người con trai đứng trước ô cửa sổ không quay lại. Anh lơ đãng lắc đầu. Cô gái nén tiếng thở dài. Cô loay hoay ngắt đi vài cành hồng khô héo giữa những đóa hoa còn nở rộ trong bình.

Buổi chiều hắt những giọt nắng vàng úa vào căn phòng khách tĩnh mịch, tạo những vết sáng loang lổ trên tường. Chiếc máy hát vẫn rên rỉ mỗi một giai điệu sầu não. Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động, làm sao em biết bia đá không đau. Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng. Ngày sau sỏi đá cũng cần…

-”có em!”. Tiếng cô gái át tiếng nhạc.

Người con trai quay lại. Anh mỉm cười. Cô gái nháy mắt :

- Thế mới dễ thương chứ. Lâu lâu anh cứ trầm ngâm làm em cảm thấy bất an làm sao ấy.

- Ðâu phải anh ít nói là anh phải thế nào đâu. Người con trai lắc đầu, thanh minh.

Anh có vẻ là người trí thức hơn là nghệ sĩ. Nhìn anh, người ta có thể đoán ngay anh là người ít nói. Kín đáo nữa là khác! Người con trai bước khẽ đến tủ sách. Anh lựa một quyển bìa đỏ, dầy cộm. Ðôi tay thông thạo lật tới một trang, rồi anh trầm ngâm chuyển sang Việt ngữ những giòng thơ Pháp :

Tôi thường có những cơn mơ lạ kỳ và thấm lòng
Về một người phụ nữ không tên, mà tôi yêu và yêu tôi
Và mỗi lần nàng xuất hiện không giống như lần trước
Nhưng cũng không quá mức xa lạ, vẫn yêu, và vẫn hiểu tôi.

Cô cười. Nụ cười buồn, không còn hồn nhiên như vài phút trước kia.

- Hình như anh chỉ biết sống trong mơ.

Người con trai im lặng. Giữa họ thường có biết bao lần im lặng để chôn lấp những cơn lúng túng, hay những bí ẩn riêng tư không thể thổ lộ.

Em chuẩn bị phụ mẹ dọn cơm chiều nên tôi xin phép ra về. Ði tới xe rồi mà câu nói của em vẫn còn làm tôi suy nghĩ. Anh chỉ biết sống trong mơ. Tôi quay nhìn lại. Cánh cửa đã khép kín từ bao giờ. Em không đứng vẫy tay như thường ngày. Lại những hờn dỗi con gái!

Tôi rảo bước đến chiếc xe trắng loáng đậu bên vệ đường, rồ máy, rồi vẫn như phân vân vì một lý do gì, tôi lại quay nhìn ngôi biệt thự của gia đình em lần nữa. Bức tường đá trắng, nay đã bị rêu phong giữa các kẽ gạch, đang đổ dần sang màu xám xanh. Quanh nhà em ở là một mảnh vườn trồng tỉa đủ loại hồng. Các hòn sỏi muôn màu được xếp cố định thành một vòng tròn quanh mỗi bụi hồng gây cho tôi ý tưởng về những cuộc đời nằm yên phận trên giòng thời gian. Thế giới của em có một vẻ gì cố định, vững chắc làm lắm lúc đến thăm em, tôi cảm thấy mình còn quá long đong. Thế giới của tôi có em, nhưng tôi vẫn níu kéo những thói quen ngày trước. Tôi vẫn còn là tôi, một kẻ lang thang không định hướng. Tôi cũng chưa muốn ngừng chân để phải nhìn lại suốt chuyến xe thời gian mình đã bước qua. Tôi sợ kiểm điểm lại bản thân.

Tôi lái xe vòng ra khỏi con đường nhà em. Ði mà không có khái niệm mình sẽ về đâu. Một ngày sắp trôi qua, vẫn lặng lẽ và tẻ nhạt như bao ngày.Hình như anh chỉ biết sống trong mơ. Thoạt đầu, câu nói của em làm tôi choáng váng. Tôi toan thanh minh, nhưng mơ hồ nhận ra một sự thật ẩn núp đâu đấy. Giờ đây, lời em nói cứ lẩn quẩn quanh tôi. Cảm giác bứt rứt lan dần. Không hẳn em không hiểu tôi; có lẽ em hiểu tôi quá, nhưng em có thói quen tung ra sự thật một cách quá gọn ghẽ, đường đột.

Em đến bên tôi đúng lúc tôi không còn trông mong điều gì ở sự thản nhiên lạnh lùng của cuộc sống. Tôi không còn cảm nhận được sự náo nức, hồn nhiên của tuổi trẻ trong tôi. Em đến bằng những cuộc chia sẻ thơ văn khá lý thú. Tâm hồn em say mê. Lời lẽ của em êm ái. Và lạ nhất là tấm lòng em vị tha. Em ngây thơ trong những câu nói, đến mức lắm lúc làm tôi ngớ ngẩn cả người. Tình yêu đến thật bất chợt. Nhiều ngày, tôi hăng hái đến sở làm từ sáng sớm, để chiều ra về đúng giờ em tan lớp. Tôi háo hức vòng qua trường em và chở em về kịp bữa cơm tối với gia đình. Ngày ấy, tôi thường ngưng xe ở đầu phố, xuống cùng em đi bộ thật chậm rãi đến trước vườn hoa bọc quanh nhà em rồi mới chia tay. Những ngày hạnh phúc bên góc phố nhỏ, lặng lẽ, âm thầm. Nơi mà chỉ có tôi, có em bên tôi và niềm vui cầm tay em bước nhẹ vào đời.

II.

Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động,
Làm sao em biết bia đá không đau…

Tôi cô đơn trong cuộc sống như kẻ phiêu lưu đi giữa sa mạc. Sa mạc mang một vẻ đẹp hoang dã. Phải tìm đến nó, phải kiên nhẫn khắc phục sự cô đơn trong lòng thì mới cảm nhận được sức sống thiêng liêng nó ẩn chứa. Lời em đong đầy nỗi nhớ. Sống trong sa mạc ta chỉ cần nước, lửa, và biết nhịn đói! Nước để giải thoát khỏi cơn khát và lửa để hướng tim mình trong đê
m khuya.

Sa mạc đẹp trong sức sống vội vã của nó. Cỏ cây xanh tươi, và cả những loài hoa hiếm quý chỉ nở rộ sau mỗi cơn mưa và hiện hữu trong một khoảng thời gian ngắn. Vì mưa hiếm đến thế, quý đến thế nên mưa là sự sống mà các loài sinh vật đều chụp lấy trước khi nó mất đi. Cả vùng sa mạc trong tôi cũng không rứt được cơn mưa em gửi lại. Anh có tin không điều gì tuyệt đối trong cuộc sống này không? Cả loài xương rồng khô khốc giữa lòng sa mạc cũng có lúc nở hoa sau một cơn mưa. Em là người thiếu nữ đầu tiên đã nhìn thấu tình cảm tôi giấu kín sau bộ mặt hờ hững, chán chường. Tôi từng xúc động vì em hiểu tôi. Ðơn giản chỉ thế, nhưng rồi lại nghi ngờ thực tế quá bình dị, quá êm đẹp. Tôi nghĩ đến những ảo ảnh trên đất sa mạc như bao cạm bẫy đón đợi một tâm hồn cằn cỗi nhưng cả tin.

Một năm, rồi hai năm lầm lũi bước qua. Không rõ từ khi nào cuộc sống đã đẩy đưa chúng tôi đến một đoạn rẽ. Nỗi buồn man mác trôi theo thời gian cùng với sự hồ nghi lớn lên trong tôi. Tôi thương em, nhưng tôi sợ tình yêu như loài chim rừng lo mắc phải cạm bẫy. Thời gian đầu, tôi thụ động chờ em tự giải quyết với sự im lặng và gửi cho tôi một đoạn kết. Tôi không bày tỏ, cũng chẳng thanh minh với em về những ảo ảnh riêng tư. Tôi không chụp lấy sức sống tươi mát trước khi nó trôi qua, chẳng như bao sinh vật của vùng sa mạc huyền bí em miêu tả. Em quan tâm tìm đến tôi, thì tôi lại càng tỏ vẻ lãnh đạm. Rồi em cũng gửi trả lại tôi sự im lặng như bao âm thanh không dội lại nơi miền đất hoang vu vô tận.

*

Thời gian đó, tôi quen một người con gái khác, tên Quyên. Nàng là một người phụ nữ tân thời, thích sống trong hiện tại. Ðấy là một ưu điểm giúp tôi nguôi ngoai nỗi nhớ em. Tính nàng ít thắc mắc, ít đối chiếu tôi với loạt câu hỏi sâu xa. Tôi an lòng. Như thế, những hoang mang trong tôi khỏi bị khuấy dậy. Đối với Quyên, dạo chơi bát phố, mua sắm linh tinh, lâu lâu cùng nhau nấu nướng rồi vừa ăn vừa xem truyền hình là đủ thân thiết. Tính nàng sống thiên về vật chất, không nhiều đòi hỏi về tâm linh. Sự khác biệt giúp tôi quên dần em!!

Ngày dọn nhà, từng giờ ngồi xếp đống sách vở vào thùng ngốn đi vô số thời gian của tôi. Tôi ngỡ ngàng vì phải ôn lại quá nhiều kỷ niệm. Mỗi thùng đồ là một mảnh đời ngổn ngang mà tôi tạm xếp lại. Ðột nhiên một buổi, tôi trông thấy chiếc dĩa nhạc kẹp giữa một quyển tiểu thuyết. Đĩa nhạc tôi đã thâu với ý định mang tặng em rồi lại không cho đi. Cơn thúc hối không tên khiến tôi sắp chiếc dĩa vào máy hát, rồi bấm nút cho máy tự động chọn bài. “Bất ngờ nào cũng thú vị lắm, anh biết không?” Lời em nói văng vẳng như trong tầm tay với, cùng với sự bất đồng ngớ ngẩn dấy lên trong tôi. Khác em, tôi chỉ yên tâm với những gì được biết trước. Sự phẳng lặng trong cuộc sống, dù buồn tẻ, vẫn an toàn hơn những khúc đời chênh vênh bão tố.

Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động,
Làm sao em biết bia đá không đau…
Ngày sau sỏi đá cũng cần… “có em” !

Nỗi nhớ vô thức vụt hiện về để tôi bàng hoàng nhận ra ý nghĩa của lời em đùa ngày nào.

-Anh, chàng ca sĩ vừa hát làm sao em biết bị đá không đau há?

Quyên lại gần kề bên, xoa xoa vai tôi; nụ cười của nàng mang chút vẻ nhạo báng. Tôi không thiết trả lời. Quyên pha trò bỗng làm tôi bực bội. Có lẽ tôi hơi gắt. Tôi biết tính nàng. Những bản dạ khúc cũ rích như thế Quyên không mấy ưa. Lắm lúc còn tỏ vẻ khó chịu khi phải nghe chúng. Quyên là thực tế nằm vất vưởng trước tầm nhìn của tôi. Còn em lại là kỷ niệm và bao tình cảm dồn nén chật cả quá khứ. Có lẽ ngày kia em nhật xét đúng. Tôi theo đuổi một hình bóng mơ hồ mà tôi cho đấy là người phụ nữ tuyệt vời. Ðó là mẫu hình lý tưởng góp nhặt từ nhiều bài thơ, các dòng tiểu thuyết.

Niềm thất vọng lớn dần qua tuổi ba mươi khi tôi vẫn chưa tìm được người thiếu nữ như Giấc mộng quen thuộc của Verlaine. Còn biết bao lần tôi đã xót xa trước sự thờ ơ hay tính toán của những người bạn gái cũ. Tình cảm trong tôi kiệt dần. Ðến khi quen em, dù hạnh phúc, tôi vẫn không tin vào niềm vui đang có. Làm sao vài tháng ngày ngắn ngủi có thể tước bỏ bao năm lê lết nỗi chán chường. Làm sao một cơn mưa có thể biến mảnh đất cằn cỗi thành một vùng ruộng màu mỡ…

III.

Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Ðể người phiêu lãng quên mình lãng du…

Tôi chờ em trong quán cà phê của bao lần hò hẹn. Kỷ niệm vẫn xoay vòng quanh tôi như những khúc đàn dạo. Hai tháng có tiếng em líu lo bên đầu giây điện thoại. Có giọng cười khúc khích của em làm tôi nao núng. Rồi buổi tối chuyện trò khuya, tôi lăng xăng đọc cho em những dòng thơ ngọt ngào qua ánh đèn pin.

Tôi xin làm mưa bay, trong vườn em mùa hạ.
Tôi xin làm chút gió, mát thêm những bờ vai.
Tôi xin làm hôm nay cho đời em trẻ mãi.
Tôi xin làm nụ cười chờ em giữa đôi môi…

Tôi thích thú nhận ra nơi mình một nét tình tứ. Ngẫu hứng, tôi hóm hỉnh đùa : “Không biết ai cần “trẻ mãi” nhưng hãy cứ làm hôm nay cho nhau, nhé em.” Có em, tôi hạnh phúc bất ngờ, tưởng tuổi trẻ của tôi vừa quay trở lại. Tôi nhớ đến tôi của ngày xưa, của tuổi chưa trưởng thành, mang nét ngây ngô đến đáng thương. Ngây ngô đủ để làm những điều mà không ai dám làm. Ngày ấy, tôi còn bạo dạn, còn đủ ước vọng, khát khao, còn lạc quan tin vào cuộc sống và lòng người…

*

Ðồng hồ điểm năm giờ. Chỉ vài phút nữa em sẽ đến. Có lẽ em sẽ trễ đúng mười phút như thường lệ. Tôi mỉm cười thấy mình hiểu em quá. Không biết tự bao giờ sự đợi chờ đã biến thành niềm vui. Tôi mường tượng lại dáng em tha thướt trong một chiếc áo đầm xanh, hay trắng. Mái tóc dài chảy chưa chấm eo. Tôi sẽ đứng dậy giúp em cởi chiếc áo khoác, rồi ân cần bắc ghế mời em ngồi. Em sẽ mỉm cười bảo không ngờ Anh còn biết ga lăng. Tôi sẽ chọc em với trò lấy điểm do em bày ra khi xưa, phải biết ga lăng để được em chấm hạng ưu chứ ! Không, nên nói “phải biết galant để được Mưa chấm hạng ưu chứ!”

Em sẽ hiểu khi tôi gọi em với cái tên âu yếm ấy. Rồi tôi sẽ đùa thêm: Có những lúc sa mạc cũng cần mưa. Em sẽ cười, giọng cười khúc khích như từng viên pha lê đã theo tôi suốt một thời sỏi đá. Ðúng thế, những viên đá sỏi có ngày cũng cần nhau như hôm nay tôi chợt hiểu mình cần em. Mặc cho tôi đã cố tình l�
��n tránh, phủ nhận. Rồi em sẽ bẽn lẽn hỏi vì sao tôi muốn gặp em. Tôi sẽ chủ động cầm tay em. Sẽ chân thành bộc lộ bao tình cảm dồn nén mà không trói cột chúng bằng hình thức khô khan để phòng thủ. Lần này tôi mong em hiểu. Muốn em biết rõ rằng tôi yêu em. Càng gặp những rắc rối thì càng thấy em thể hiện những gì êm đềm nhất trong cuộc sống. Như thế có đủ trực tiếp không. À, không hẳn khi không gặp rắc rối thì không biết quý em, nhưng ở vài trường hợp… Tồi quá, sao lại lý trí, lại vấp váp thế này…

*

Khi đồng hồ điểm năm giờ mười hai phút thì người con gái bước vào quán cà phê. Dáng cô tha thướt trong một chiếc đầm xanh, bên ngoài khoác hờ một mảnh áo lụa trắng. Lúc cô còn phân vân nhìn quanh thì người con trai đã vẫy vẫy tay gọi. Vẻ mặt anh hớn hở. Cô duyên dáng bước lại gần, mềm mại lướt qua những phần trống nhỏ hẹp giữa các bàn vuông đầy người. Anh đứng dậy, giúp cô cởi chiếc áo khoác. Ðoạn, anh lăng xăng bắc ghế mời cô ngồi. Cô gái mỉm cười :

- Anh ga lăng ghê !

Người con trai tủm tỉm :

- Phải biết ga lăng để được Mưa chấm hạng ưu chứ !

Rồi anh kê lại chiếc ghế đối diện. Ngồi xuống. Vẻ mặt tự tin như một vị lão già đã tính toán kỹ lưỡng đường lui nước bước trên bàn cờ tướng. Người hầu bàn đem thêm một tờ thực đơn đến cho họ. Cô gái gọi một ly kem.

- Va-ni phải không em? Người con trai nhanh nhạy hỏi.

Cô gái ngước nhìn anh, chút vẻ ngạc nhiên thoáng qua.

- Anh còn nhớ sao?

Người con trai gật gù, khoan khoái ngồi tựa lưng lên ghế. Những giọt nắng vàng đậu trên thành bàn, lấp lánh phản chiếu giữa cặp ly thủy tinh. Họ nhìn nhau cười. Rồi một người cúi nhìn chiếc khăn giấy đặt trên mặt bàn; người kia lảnh nhìn sang phía bàn bên cạnh. Người con trai lẩm nhẩm câu gì không rõ. Trông vẻ mặt anh chăm chú như đang ráng giải một bài toán khó. Người hầu bàn trở ra với một ly kem trắng xóa và tách expresso thơm phức.

- Ngon nhỉ. Người con trai vờ nhắm mắt hít một hơi dài.

- Ai chọn mùi va-ni có lý nhé. Người con gái cười khúc khích.

Ðoạn cô lại im lặng, ngồi chăm chú ngắm chiếc ce-ri đỏ mộng trên hai đỉnh núi kem. Họ ngồi đó. Mười lăm phút trôi qua chỉ hứng gọn vài lời trao đổi vụn vặt. Sự im lặng lại kéo trở về, thản nhiên như bao lần.

- À, hôm nay, gặp em.

Người con gái ngước mắt nhìn bạn. Người con trai bỏ lửng câu nói. Anh xoay người, ngượng nghịu. Ánh nắng tinh nghịch vô tình hắt bóng từng giọt mồ hôi rịn trên khuôn mặt hốc hác. Dưới mặt bàn, đôi tay anh bặm vào nhau, run run…

Em nhìn tôi. Cái nhìn lạ lẫm. Em không mang vẻ chờ đợi như tôi mong tưởng. Tôi chỉ muốn nói tôi yêu em, chỉ muốn thốt lên một lời bình dị từ lòng mình, không màu mè, không phiếm diện. Biết vậy nhưng tôi vẫn vấp phải khối từ ngữ. Chữ nghĩa không còn giúp em và tôi thông cảm lẫn nhau. Chúng uốn cong những xúc cảm như chiếc gậy đâm thủng mặt cát san bằng, tạo nên một lỗ hổng kỳ dị.

- À, có bao giờ mưa biết là sa mạc cũng cần mưa không? Người con trai nói và lại xoay người trên ghế (một thói quen từ nhỏ).

Anh nói to và ngọng nghịu hơn thường. Vẻ mặt anh lúng túng. Người con gái nhìn anh thắc mắc. Anh hấp tấp nói thêm, ấp úng đến tội nghiệp.

- Anh muốn nói là dù cho mưa không biết, sa mạc cũng vẫn cần có mưa. Mưa có hiểu anh không?

Người con gái im lặng. Sự lặng thinh thay cho câu trả lời. Người con trai cười gượng. Bàn tay thừa thãi mân mê chiếc nắp bàn. Bất lực, anh cúi gằm. Cô gái nhìn bạn mình, xót xa.

*

Bao lâu không bày tỏ tình cảm, tự dưng tôi thấm thía sự vụng về của mình. Em làm thinh để tôi càng xấu hổ. Niềm tự cao trong tôi chuyển dần sang một thứ mặc cảm vô đáy. Thêm một lần tôi lẩn né ánh nhìn của em. Em vẫn xinh tươi như hôm nào. Vẫn nụ cười êm dịu ấy, và ánh nhìn trong sáng như hai vì sao lấp lánh của những người tự tin và hạnh phúc trong cuộc sống.

Cô gái đặt khẽ bàn tay thon nhỏ lên tay người con trai.

- Anh có sao không ?

Anh ngước nhìn người thiếu nữ trước mặt. Vẻ mặt anh lạc lõng đến tội nghiệp.

Một nghi vấn mơ hồ khiến tim tôi hụt đi vài nhịp. Phải chăng sự quan tâm em dành cho tôi không còn nguyên vẹn như trước?. Tôi mù mờ linh cảm chút gì thay đổi nơi em. Ðôi mắt em nhìn tôi chăm chú, nhưng không mảy may tha thiết. Giọng nói của em vẫn dịu êm, nhưng không còn vẻ gì nũng nịu. Cả nụ cười em tươi vui, nhưng hình như có thể dành cho vạn vật, chứ không riêng vì tôi.

Cô gái nhìn bạn mình. Trông mắt anh đờ đẫn, vẻ gì hoang dại. Cô lo lắng. Một cảm giác sợ hãi bay thoáng. Cô nhấn nhẹ lên tay anh:

- Anh có sao không ?

Người con trai nhìn xuống bàn tay của cô gái. Anh sững người. Thì ra đây là sự thay đổi. Một chiếc nhẫn nhỏ thắt chặt ngón áp út của em.

Người con trai không trả lời. Vẻ lúng túng trên gương mặt anh biến nhanh như vũng nước bốc hơi trên vùng đất hạn hán. Anh quay ngược tay mình cầm bàn tay mỏng manh của người con gái, vân vê như lưu luyến những ngón tay thon dài. Người con gái rụt rè rút lại. Anh vươn vai, điềm nhiên tựa mình lên ghê. Ðầu óc anh không còn rối loạn sắp đặt những câu nói trước, nói sau nữa. Sự im lặng lại trở về bên họ, thản nhiên như bao lần. Họ ngồi bất động, nhìn nhưng không thấy nhau. Mỗi người bắt đuổi một dòng suy tư riêng biệt.

Em và tôi ngồi giữa một quán nước náo nhiệt, nhưng cả hai đều lạc lõng. Còn ai nữa sẽ đành lòng cưu mang nỗi đơn độc suốt cuộc hành trình này. Sa mạc vẫn mãi là sa mạc. Dù một ngày, vài giọt nước hiếm hoi có hôn lên lòng đất cằn cỗi, chúng cũng chóng bị hong khô trước khi xuyên thấu lớp cát. Mỗi giọt mưa là một ước mộng hão huyền vụt hiện rồi tan biến giữa vòm trời rực nắng.

Chiều tàn hắt lên mặt bàn những vạt nắng cuối. Hai người ngồi đối mặt, nhưng một cặp mắt cứ lẩn trốn. Người con gái mân mê chiếc thìa nhỏ đặt trong ly kem đã cạn. Ðoạn, cô xem giờ.

- Về Anh nhé. Muộn rồi. Em phải đi thôi.

Cô gái có vẻ trầm ngâm. Cô nhìn bạn mình. Người con trai vẫn ngồi bất động. Ðôi mắt đen láy mang ánh nhìn xa xăm, lạc lõng giữa vô số ảo mộng như ngày nào. Cô nói khẽ, như cho riêng mình hơn để ai khác nghe :

- Anh ơi, nếu anh hạnh phúc hơn trong những giấc mơ hão huyền, hãy ở lại đấy. Lắm
lúc bước ra sẽ không tránh khỏi sự thất vọng đâu Anh.

Tiếng em xuyên thấu khối sương mù giăng đặc trí óc tôi. Chúng vang dội giữa vài kẽ hở sót như một lời phán quyết cuối.

Em không còn là Mưa của tôi như ngày nào. Lại thêm một lần tôi ảo tưởng về em, về tôi, về biết bao tình cảm đã đánh mất ngay trước khi có. Suốt từ nãy, cảm giác đau đớn không làm tôi bàng hoàng, nhưng nỗi hụt hẫng theo từng giây cứ lan rộng thêm mãi. Tôi mơ nghĩ đến vùng sa mạc sau mùa giông bão, cát bụi cũng lấp đi những vết lún, san bằng những cồn đất. Chỉ để lại một thảm cát trắng muốt trải dài mãi tận chân trời…

Sunday, July 6, 2008

Bạn cũ - Phạm Thị Diệp Giang

Mẹ tôi gọi điện tới văn phòng: "Có đứa nào tìm con đấy. Nó hỏi mẹ số di động, thấy mẹ có vẻ ngập ngừng không muốn cho, nó nói, cháu không làm hại gì Hương đâu bác. Tự dưng mẹ thấy lo lo".

Tôi điểm đi điểm lại trong óc, không đoán ra nổi đó là ai. Mọi thứ đang bình thường, rồi bỗng chốc, một ai đó tìm gặp bạn và lại nói "không làm hại gì cả", bạn sẽ nghĩ gì?

Mẹ bảo: "Nó nói giọng Sài Gòn, cũng thưa dạ tử tế lắm". Bố bảo: "Thưa dạ tử tế cũng chẳng nói lên điều gì. Cái con Lan hay đẩy xe cho ông Tường đấy, cũng thưa dạ tử tế lắm".

Bố đang nói đến chị Lan cave. Trước tôi vẫn ngỡ là con gái ông Tường. Ông Tường vừa nghỉ hưu sớm hồi đầu năm, do một vụ đột quỵ. Ông mới chuyển tới khu tập thể tôi ở chừng hai năm nay. Bình thường, ông cũng không quan hệ với ai. Sáng có ôtô con tới rước đi, chiều, có ôtô con chở về. Sau vụ đột quỵ, từ một con người đầy quyền lực ở cơ quan, ông trở thành kẻ tàn phế, ngày đợi người tới bón đủ ba bữa cơm vào miệng; sáng, chiều cũng phải có người đẩy xe lăn cho ra ngoài hít tí bụi đường. Chị Lan là người đó.

Mẹ tôi bảo: "Thì đã làm sao? Ông cứ thành kiến. Con người ta, sông có khúc, người có lúc. Cũng vì hoàn cảnh mà nó phải vậy". Bố đặt cốc bia xuống bàn: "Tốt đến mấy, cũng vẫn là cave".

Từ ngày ông Tường đổ bệnh, bà vợ ông lại sinh ra đổ đốn. Sáng bà nói bà đi tập thể dục thẩm mỹ với mấy bà bạn. Tối bà nói bà đi tập khiêu vũ cổ điển. Có buổi tối nhà tôi đang ăn cơm, nghe điện thoại réo. Hoá ra, ông Tường gọi điện sang kêu bố tôi "cấp cứu" cho vì từ sáng đến tối bị nhốt trong nhà không một hạt cơm (bố tôi là trưởng khu tập thể). Đó mới là bữa bố tôi biết con gái ông Tường đi nước ngoài từ lâu, nhà ông giờ chỉ có ba người: bà vợ, chị Lan và ông. Bố tôi hỏi: "Thế cái Lan đâu lại để ông chết đói thế này?". Ông Tường mới ngậm ngùi trả lời: "Nó cũng đâu phải người ở. Vợ tôi thuê nó về ngày đẩy tôi hai vòng quanh phố buổi sáng và chiều. Cơm bữa sáng, bữa trưa nó lo.

Chứ từ 6h là nó đi đứng đường rồi". Bố tôi giận quá mới bảo: "Tôi chả thấy nhà ai như nhà ông, lại thuê cả cave về hầu". Ông Tường xót xa: "Nói thực với ông, tôi ốm đau, bệnh tật thế này, nhiều người đến ở nhưng không chịu được. May mà đến cái Lan, không hiểu vì nó cần tiền quá, hay vì nó quen chịu khổ rồi, mới lo hết cả mấy thứ việc khó làm ấy mà chẳng kêu ca gì. Sau này, chúng tôi mới phát hiện ra nó là cave, lúc đầu cũng bực, nhưng sau nghĩ đi nghĩ lại, thấy chỉ có nó mới chịu tận tụy chăm sóc tôi. Ngay cả nhà tôi bây giờ, ông thấy đấy...".

Kết thúc cả bữa tối, tôi vẫn chịu không tài nào nghĩ ra ai đã gọi điện cho mình. Bố mẹ vừa dọn bàn, vừa dặn tôi phải cẩn thận. Thời buổi này, trăm nghìn thứ làm người ta phải lo lắng.

"Cháu không làm hại gì Hương đâu", quái lạ, tôi thầm nghĩ. Chẳng làm hại gì, chỉ cần một câu nói thôi, đã đủ làm người ta mất ngủ mấy đêm. Ơ văn phòng công ty, cách đây gần 2 tháng, chị Lý một tuần liền đi làm với đôi mắt sưng vù. Đến một hôm, không nén nổi nữa, vừa tới cửa đã khóc toáng lên. Mọi người chạy tới hỏi, mới lập cập kể, chẳng hiểu sao, cả tuần liên tục, cứ có người gọi điện tới số di động, nói chị cướp chồng người ta, rồi cứ cụt lủn một câu kết thúc "Mày không cẩn thận, bà tạt axít cho hỏng đời mày".

Cả trưa hôm ấy, chẳng ai đi ăn, chỉ ngồi nghĩ cách giúp chị Lý. Ai cũng biết, chị Lý hiền lành, tính tình đôn hậu, từ xưa đến nay không thù oán ai. Chồng chị Lý đi công tác nước ngoài hơn một năm nay, chị Lý ở nhà với bố mẹ chồng, chăm sóc thằng bé con quanh năm đau ốm. Cuối cùng, anh Tứ bảo vệ mới nói, một mặt cứ báo công an, một mặt, đích thân anh Tứ hàng ngày sẽ lĩnh nhiệm vụ đưa đón chị Lý đi làm. Khi công an điều tra ra, mới biết, bà "Hoạn Thư" kia nhầm số chị Lý với người khác.

Đấy, chỉ là vài cái chuyện cỏn con, người thực việc thực xung quanh, đã đủ khiến ta mệt mỏi. Cứ thu mình lại, bảo toàn sự yên ổn, đó là lựa chọn tốt nhất thời bây giờ. Như đang yên đang lành thế này, lại có người gọi tới, nói "không làm hại gì đâu", hỏi có còn ăn, còn uống, còn làm việc, ngủ nghê được như thường?

Ba ngày sau, đang gà gật trong giờ ngủ trưa ở công ty, tôi nhận được tin nhắn: "Tao đây. Đứa bạn khó khăn được mày cho 2000 ăn cơm đây. Còn nhớ không?". Tôi nghĩ thầm, chắc là nó rồi. Nó - là cái đứa gọi điện cho mẹ tôi đây mà. Nhưng biết được là đứa nào chứ? Tôi nhắn lại: "Tao mà lại tốt thế sao? Mà mày là ai?".

Chẳng phải lâu la, ngay bữa trưa hôm sau, tôi đã ngồi đối diện với nó. Phụng. Phụng Lâm Đồng. Phụng Lâm Đồng cùng lớp đại học. Nó vẫn thế, chẳng thay đổi gì. Tóc vẫn cứ hoe hoe vàng, mắt nâu, da trắng, như lai Tây. Tôi cười cười: "Mày để lại câu nhắn mà làm cả nhà tao sợ. Tao cũng mất ngủ mấy ngày nay". Nó cười phá lên: "Mày có làm gì mờ ám không mà phải sợ ai? Tao chỉ muốn gặp mày vì nhớ, vì lâu quá, thế thôi".

Phụng kể, bố mẹ Phụng đã bán nhà ở Lâm Đồng, cả nhà đi theo bảo lãnh của anh cả, sang Mỹ sống đã được gần năm nay. "Có mỗi mình tao ở lại, hàng tháng sống nhờ trợ cấp của ông bà già", Phụng lại cười. "Hôm bữa, mở album lớp mình ra coi, tự dưng tao nhớ mày quá trời. Tao nghĩ mày chẳng nhớ cái vụ 2000 đâu, nhưng mà tao nhớ. Hôm bữa tao đói quá, mà không còn xu dính túi, mày móc túi lấy ra 2000, mày bảo tao mua gì mà ăn, tao mua được một suất cơm trong ký túc xá, ăn kỳ hết mới thôi". "Trời ạ, mày nhớ mấy cái vụ cỏn con đó làm gì?". "Nhớ chứ mậy. Tao tự nhủ với bản thân tao rồi, tao phải nhớ hết, ai giúp đỡ tao cái gì, tao phải nhớ để mà sau này trả ơn". "Ơn với chả oán. Mày cứ nghĩ vậy, rồi cả đời không bứt ra được cái vòng ơn - oán ấy, lại sẽ bị nó đè nặng trên vai, không làm được gì đâu". "Mày nghĩ vậy sao?". "Ừ". "Nghĩ vậy đâu được mậy. Chứ như bây giờ, nhiều đứa lớp mình tới nhà tao chơi, rồi tụi nó kêu tại sao ngày xưa bạn bè không dám nói nhau nhiều chuyện, không chịu nghe, chịu giúp nhau, để giờ phải khổ thế này".

Tôi cười: "Mày nói chuyện gì nghe to tát thế? Học đại học thì cũng lớn lắm rồi, sao không ý thức được cuộc đời của mình?". Phụng buồn buồn nhìn tôi rồi thở dài: "Thế mày không biết chuyện cái Thi vào viện phụ sản phá thai hả? Hôm nọ, nó tới nhà tao rồi khóc
, nói ngày đó dại dột, mà sao khi tao biết chuyện, tao lại không can nó?". Tôi lắc lắc cốc càphê đã loãng, chỉ còn lại mảnh đá nhỏ trong veo: "Chuyện đó cũng thường thôi mà. Vả lại, quan tâm làm sao hết? Mà tự mình không biết giữ mình thì...". Phụng lắc đầu, tỏ vẻ không hài lòng. Hai bàn tay nó đan vào nhau, ôm lấy chiếc ly, rồi nó thở dài: "Nếu ai cũng như mày, không quan tâm gì chuyện thiên hạ, thì sẽ ra sao nhỉ? Cho dù, nhiều khi tao nghĩ, mày cho tao 2000 đồng dạo nọ, có khi cũng không phải quan tâm hay thương xót gì, mà chỉ vì lúc đó mày tiện thể mà thôi...".

Tôi im lặng. Nhưng không suy nghĩ. Tự dưng tôi có cảm giác buổi gặp gỡ này sao vô duyên quá. Chúng tôi có thân thiết gì đâu, gặp lại sau vài năm, lại có thể ngồi nói những chuyện riêng tư như thân thuộc lắm. Mà những chuyện này, Phụng nói với tôi để làm gì?

Quán càphê ngay sát công ty, đã quá giờ nghỉ trưa nên khách vắng dần. Phụng cũng đã uống hết ly nước cam trước mặt. Nhưng có vẻ nó chưa muốn về, nên tôi cũng ngại, đành ngồi lại tiếp chuyện. Phụng kể đang sống trong một căn hộ rộng rãi, chỉ có một mình. "Hôm nào mày lên tao chơi. Chỗ tao rộng rãi lắm, nhiều đứa lớp mình cũng khoái qua tao. Mà tao lại rảnh, nhiều lúc buồn thúi ruột".

Thì ra, đến cả nửa năm nay, nhà Phụng đã trở thành "trung tâm buôn chuyện" của lũ lớp tôi. Toàn là dân tỉnh lẻ. Có đứa đang chờ thuê nhà mới, cũng tới ở chỗ Phụng. Có đứa người yêu bỏ, bỏ người yêu, cũng tới tìm Phụng. Có đứa thì cãi nhau với chồng, dỗi bố mẹ, cũng ra nhà Phụng. Tôi bảo: "Tụi mày thế mà vui nhỉ? Tao thì lâu cũng chẳng liên hệ gì với lớp mình, mà việc cứ đầu tắt mặt tối, không khi nào dứt ra được". Phụng xoay xoay cái cần hút nước cam trong tay: "Tụi nó bảo giờ mày làm to, đâu có tiếp xúc với ai đâu?". "Tao á?", tôi cười lớn, "to nhỏ gì mày ơi? Cũng chỉ đủ sống thôi mà. Có điều, tính tao từ xưa vẫn vậy, ít giao tiếp lắm mà". "Ừ, tao thấy mày không thay đổi nhiều. Tao nhớ, mày thẳng tính, yêu ghét rõ ràng lắm. Cứ như tao đây, giờ mà nói dối mày, mày có giận không?".

Tôi nhìn cô bé phục vụ, chưa vội trả lời. "Nói dối, nhưng mà không có hại cho mày ấy, thì mày có giận không?" - Phụng lặp lại câu hỏi. "Cũng còn tùy mức độ mày ạ! Nhưng mà nói chung là, tao không thích nói dối". Phụng lại xoay xoay cái cần hút, giờ đã bị bóp bẹp, có vẻ như nó muốn nói gì đó với tôi, nhưng lại ngại ngần không dám mở miệng. Còn tôi, thì vờ như không hiểu ý. Cũng may, một cuộc gọi của công ty đã giúp tôi "rút êm".

Lúc chia tay, tôi đòi trả tiền. Phụng nói: "Tao giờ nhiều tiền lắm, để tao trả", tôi cười "Quán này quán ruột của tao rồi, mày có trả tiền, họ cũng chẳng nhận đâu". Rồi khi ra cửa, tôi còn kịp vẫy mấy hàng hoa rong, mua cho Phụng một túm hoa cúc trắng.

Nghe tôi kể chuyện Phụng, mẹ tôi nói: "Con cũng phải xem chừng. Bạn bè 3 - 4 năm biệt tăm tích, giờ gặp lại, mọi chuyện nghe ra cũng không rõ ràng". Bố dẫn chứng: "Như thằng bạn con Chi ấy, may là nó lừa có mấy trăm".

Chi là chị con bác cả tôi. Cũng một bữa có người bạn - từng là bạn rất thân hồi còn học cấp 3 - ghé qua. Nhiều năm không liên lạc gì, gặp lại bạn thân cũ thì mừng lắm. Chưa kịp vui thì cậu bạn mới nói, đi xe vượt đèn đỏ, bị công an giữ, đang cần gấp ít tiền nhưng không có, nhớ ra có Chi nhà ở gần đây, nên vào vay tạm, bữa nào có sẽ trả lại Chi. Chị Chi vui vẻ đưa cho cậu bạn ba trăm nghìn. Mấy ngày sau, gặp một người bạn cấp 3 khác tới cơ quan giao dịch, kể chuyện. Anh này mới cho biết, cậu kia giờ nghiện hút nặng, suốt ngày "giở bài" vay tiền để "đút" công an lấy xe, bạn bè cùng lớp, ai cũng "dính" cả, có lẽ vì chị Chi là bạn thân, nên đến lúc không còn ai để lừa nữa, cậu ấy mới tìm đến.

Tôi miên man nghĩ, mấy lần định nhắn tin cho Phụng hỏi địa chỉ rõ ràng của nó, lại thôi. Suy cho cùng, chúng tôi gặp nhau, cũng chỉ là dăm ba câu chuyện, chẳng mất mát gì. Mà giờ cứ gọi điện, nhắn tin cho nó, bỗng dưng tạo lại mối quan hệ cũ, lại bạn bạn bè bè, ơn ơn huệ huệ, biết đâu lại rách việc ra.

Hơn ba tháng sau, lớp trưởng lớp đại học gọi điện tới báo ngày họp lớp, kỷ niệm 4 năm ra trường. Tôi có chuyến công tác Sài Gòn, lại không thể có mặt. Chiều hôm sau, về tới Hà Nội, tôi gọi điện rủ Dương - người bạn thân nhất ở lớp - đi uống cà phê, tranh thủ xem những bức ảnh chụp buổi họp hôm trước của lớp. Tìm mãi mà không thấy hình của Phụng, tôi mới hỏi: "Sao không thấy cái Phụng Lâm Đồng mày nhỉ?". Dương nhìn tôi ngạc nhiên: "Mày không biết à? Bọn nó bảo nó sang Nga rồi. Đi chui. Giờ chẳng có tin tức gì cả". "Nó sang Nga làm gì? Bố mẹ nó ở Mỹ gửi tiền về, nó sống đàng hoàng lắm mà". "Ai bảo mày vậy chứ?". "Nó. Nó tìm tao hồi ba tháng trước. Còn đi ăn với nhau mà.

Nó nói nó sống trong căn hộ rộng rãi lắm, bọn lớp mình còn thường xuyên tới nó chơi mà". "Làm gì có chuyện đó. Bố mẹ nó mất lâu rồi mày ơi. Nó còn ông anh trai, đang làm ở một quán càphê ở Hà Nội này. Nó tốt nghiệp xong rồi không tìm được việc làm, cũng lang bạt mãi. Vừa rồi, nó cũng tìm đến bao nhiêu đứa lớp mình vay tiền, nói là chữa bệnh. Nhưng giờ thấy bảo đi Nga rồi, chắc là chẳng đứa nào hy vọng nó trả tiền nữa".

Tự dưng, tôi có cảm giác hụt hẫng. Có phải Phụng đã dối tôi - đứa bạn nó bảo mang ơn vì 2000 đồng cho một bữa đói? Tôi như thấy lại Phụng, tóc hoe hoe vàng, da trắng, mắt nâu. Tôi nhớ lại câu hỏi, lời nói, cái giọng ngọt ngào của nó. Hoá ra, (có vẻ như) tôi chẳng biết gì hết. May mắn, hay không may mắn, là Phụng đã không chọn tôi như cậu bạn thân của chị Chi đã "lừa" chị ấy? Tôi mở máy, bấm số của Phụng, chỉ nghe tiếng báo hiệu không liên lạc được, bất giác, tôi hỏi Dương: "Mày cũng chỉ nghe nói thôi, phải không?".

Vùng trời của cha - Nguyễn Quang Thiều

Bữa cơm tối của người cha tàn tật thường kéo dài đến hai tiếng đồng hồ. My vừa cho cha ăn vừa dỗ dành ông như dỗ một đứa trẻ ốm yếu. Trong chiếc ghế mây rách có lót một cái ruột gối cũ, ông run rẩy như một con chim non mới mọc lông măng. Người cha trệu trạo nhai từng thìa cơm. Trán, cổ và hai thái dương trắng xanh của ông túa mồ hôi. Đôi môi ông vất vả ngậm thìa cơm như con chim non phải giữ con mồi khỏe bằng cặp mỏ mềm của mình. Thời gian đầu, cứ mỗi khi bón cơm cho cha My lại khóc. Người cha cũng khóc không thành tiếng. Hai năm trở lại đây cô không khóc nữa. Thay vào đó, cô nhí nhảnh kể cho cha cô nghe những chuyện đại loại như cây hoa trà ông trồng giờ đang trổ nụ, những chậu xương rồng nhiều loại của ông mọc thêm rất nhiều nhánh, hay buổi sáng nào đó trong vườn nhà xuất hiện một con chim lạ, giọng con chim rất trong và mảnh như tơ nhện. Cô cứ kể những chuyện như thế cho tới khi người cha ăn xong thìa cơm cuối cùng. Đặt cái bát sang một bên, và lúc nào ngay sau đó cô cũng nói với người cha: "Ba đã hoàn thành nhiệm vụ. Con quyết định tặng huân chương cho ba". Người cha cố ngước mắt nhìn con và cười. Và chỉ có cô mới biết là ông đang cười.

Ngày nào cũng vậy, bữa ăn thường kết thúc vào lúc những tia nắng cuối cùng trong ngày tan biến trong vòm lá bên cửa sổ. Và mảnh trời nhỏ nhìn qua ô cửa sổ ngả sang mầu dâu chín. Hai cha con My ngồi im lặng bên nhau. Cô đặt những ngón tay gầy và hơi lành lạnh của người cha trong bàn tay nhỏ nhắn của cô. Cả hai cha con cô ngồi như bất động nhìn về phía mảnh trời nơi có những ngôi sao bé bỏng và ướt át thường hiện lên rất sớm vào những đêm không mây.

Bóng tối của đêm thường bắt đầu ùa kín những góc nhà, rồi sau đó lan vào gầm giường và gầm bàn ghế. Khi bóng tối đã ùa kín căn phòng thì là lúc hình như hai cha con nghe rõ hơn tiếng gió đi qua những tán cây ngoài vườn. Trong bóng đêm rộng lớn và bí ẩn trùm xuống, những tiếng xào xạc quen thuộc bỗng trở lên huyền bí như từ những ngôi sao xa xăm vọng về. Cũng lúc ấy, My thấy những ngón tay của người cha ấm dần lên. My khẽ ngước mắt nhìn cha. Trên gương mặt bệnh tật của ông hắt mờ mờ một thứ ánh sáng từ đâu đó. My nhận thấy đôi mắt cha cô như tối hơn và cũng như rạng rỡ hơn. Những giây phút như thế cô không dám thở mạnh. Cô biết cha cô đang bước từng bước mê dại trong ý nghĩ lạ lùng về phía vòm trời kia. Rồi ông khóc. Và chỉ có My mới biết được cha mình đang khóc.

"Ba đi nghỉ đi ba. Ba ngồi lâu quá rồi". Cô nói và đứng dậy bật đèn. ánh sáng tràn ngập căn phòng. Đâu đó trên tường có bóng một con gián thấy ánh sáng vội chạy vào một khoảng tối gần đó. My đỡ người cha lên giường và bắt đầu bài xoa bóp chân tay cho cha theo hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa. Khoảng chín giờ tối cô buông màn cho cha. "Con chúc ba ngủ ngon", cô nói và hôn lên trán người cha lúc nào cũng như lấp dấp mồ hôi. Sau đó cô tắt đèn và đứng một hồi lâu trong bóng tối bên giường cha. Khi cô quay ra cửa thì giật mình nhận ra có người đang đứng tựa vào một bên cánh cửa.

"Mẹ đây", bóng người nói.

"Mời mẹ sang phòng bên", My nói sau một lát im lặng.

"Mẹ vội. Mẹ muốn nói chuyện với con một chút", người đàn bà nói.

"Có chuyện gì không mẹ?", My hỏi, giọng cô như quá mệt mỏi.

"Mẹ đến chỉ để nói với con chuyện công việc của con thôi. Mẹ đã xin cho con làm họa sĩ trình bày ở một tờ báo đang thịnh hành, lương khởi điểm khoảng dăm trăm ngàn. Như thế... sẽ đỡ cho con. ý con thế nào?".

"Con vẫn dạy vẽ và tiếng Anh cho bọn trẻ con cùng phố. Tiền thu nhập cũng đủ chi tiêu. Vả lại... ba con con cũng không đòi hỏi gì nhiều lắm".

"Nhưng còn công việc của con, còn tương lai của con", bà mẹ ngập ngừng.

"Tương lai của con ư? - My khẽ bật cười - Cái đó thì mẹ khỏi lo. Còn công việc... con cũng đang làm việc đấy chứ".

"Không, con phải đi làm. Mẹ đã tốn khá nhiều tiền để xin chỗ làm cho con".

"Mẹ làm thế để làm gì - My chau mày - Nếu con đi làm thì ai trông coi ba".

"Đấy cũng là điều mẹ muốn nói với con - Giọng bà mẹ chợt hồ hởi - mẹ sẽ bỏ tiền ra thuê người chăm sóc cho ông ấy, con đừng lo".

"Chẳng ai có thể chăm sóc ba con bằng con cả - My nói và thở dài - không ai có thể hiểu được ba, ngay cả...".

Cô định nói: "Ngay cả chính mẹ", nhưng cô lại thôi.

"Sao lại không có ai chăm sóc được ông ấy. Chỉ cần trả công khá một tí là khối kẻ tranh việc, mà có phức tạp gì đâu. Mỗi ngày cho ăn hai bữa, đổ bô vài lần và giặt một bộ quần áo mỏng".

Trong bóng tối hiên nhà, My nhìn mẹ cô im lặng, mãi lâu sau cô mới nói: "Mẹ về đi, hôm nay con mệt lắm". Nói xong, cô bước xuống chiếc sân nhỏ. Bà mẹ lặng lẽ bước theo. My mở cổng và có ý để bà mẹ đi về.

Bước đến cổng, mẹ cô dừng lại trước mặt cô và nói: "Con phải suy nghĩ cho kỹ đi. Mẹ lo cho con".

"Cảm ơn mẹ", My nói và lại bật cười khe khẽ. Cô đóng cửa và vội vã đi vào trong nhà.

Hơn một tháng trở lại đây, mẹ cô thường đến thăm cô vào buổi tối. Bà thường đứng ngoài cửa buồng cha cô và lặng lẽ nhìn vào. Bà đứng đó đợi My cho đến khi My đã buông màn cho người cha đi ngủ. Lần nào bà cũng nói đến chuyện công việc của cô. Và lần nào My cũng chỉ đứng trong hiên nhà trong bóng tối mệt mỏi nói chuyện với mẹ cô. Cuối cùng lúc nào cô cũng nói với mẹ cô câu: "Con mệt lắm, mẹ về đi", rồi bước ra mở cổng.

Có tiếng xe máy nổ và xa dần. My chậm rãi bước vào nhà. Căn phòng nhỏ của cô chưa bật đèn và đầy mùi thuốc vẽ. ở góc phòng cạnh cửa sổ mở ra vườn, tấm toan trắng hắt sáng mờ mờ. My lần từng bước trong bóng tối đến trước giá vẽ và ngồi xuống. Cô đưa những ngón tay nhỏ chạm khẽ lên mặt toan. Hơn một năm nay cô đã đợi chờ những mảnh mầu kỳ diệu từ đâu đó sau tấm toan hiện về. Nhưng mỗi lần vẽ xong cô lại càng thấy thất vọng hơn. Cô đã điên khùng rạch nát không biết bao nhiêu tấm toan. Và cũng đã bao nhiêu lần cô gục khóc trên giá vẽ. Cô khóc không phải vì sự thất bại trong nghệ thuật. Nói đúng hơn, chưa bao giờ cô đeo đuổi một thành công nào đó trong nghệ thuật. Cô chỉ vẽ như cô cần phải vẽ. Cô khóc về sự bất lực trong tình yêu của cô đối với người cha bệnh tật.

Cha cô vốn là một phi công lái máy bay quân sự trong chiến tranh. Sau giải phóng ông chuyển sang lái máy bay dân sự. Sau mỗi chuyế
n bay trở về, ông say đắm kể cho mẹ con cô nghe về những vùng trời ông đã đi qua. Ông quen thuộc những vùng trời tưởng như vô định ấy như mảnh vườn nhỏ của gia đình ông, hoặc như làng quê ông bên bờ sông Hàn. Nhiều đêm, những câu chuyện của người cha đã đưa cô đến những vùng trời ấy trong giấc mơ.

Cô gặp những đứa bé trong suốt vừa bay vừa hát bên những bông hoa lạ.

"Hoa này là hoa gì, bạn nhỉ?", cô hỏi.

"Hoa Anh My", những đứa bé đồng thanh nói như hát.

"Ôi! Cùng tên với mình đấy - Cô thích thú kêu lên - Thế những con chim vàng óng kia là chim gì?".

"Chim Tao Linh đấy".

"Tao Linh à, mình chưa bao giờ nghe nói đến loài chim này - Cô hơi nghiêng đầu và nhíu mày. Rồi cô nhoẻn miệng cười và nói - Ba mình cũng hay bay qua đây, các bạn có biết không?".

"Ba của bạn à? - Những đứa bé hỏi và nhìn nhau - à, chúng mình nhớ rồi. Ba của bạn cười giống bạn lắm. Ông đến đây và thường quỳ trước những bông Anh My. Mặt ông hơi ngửa lên, đôi mắt khép nhẹ và say đắm trong tiếng hót của bầy Tao Linh. Nhưng ông đã...".

Lũ trẻ nói đến đó chợt im lặng và nhìn nhau khác thường.

"Ba bạn đã... đã mang hương hoa Anh My và tiếng hót Tao Linh về mặt đất. Lẽ ra lúc này thì chưa nên, nhưng không sao đâu, bạn đừng lo", lũ trẻ an ủi My.

"Thế ba mình...", My định hỏi tiếp một câu thì chợt nghe một tiếng nổ. Những đứa bé vụt biến mất. My tỉnh giấc.

Ngọn đèn ngủ vẫn tỏa ánh xanh nhạt trong nhà. Qua màn, My nhìn thấy ba mẹ cô đang ngồi quay ra cửa. Trên nền nhà có những mảnh cốc vỡ.

"Tôi không chịu nổi cuộc sống như thế này nữa rồi", mẹ cô tức tưởi nói.

"Anh chưa làm một điều gì xúc phạm đến em cả. Anh không hiểu vì sao lâu nay em luôn luôn cảm thấy khó chịu khi anh về".

"Anh không hề nghĩ đến cái gia đình này. Anh cần những vùng trời của anh. Anh mang về cho mẹ con tôi những gì từ đấy. Những mây, sao, gió máy của anh không thể bán lấy tiền được".

"Anh nghĩ gia đình mình rất hạnh phúc. Sinh hoạt cũng không thiếu thốn lắm".

"Hạnh phúc - Mẹ cô bĩu môi - Anh đến nhà đồng nghiệp anh mà anh không thấy ngượng à. Họ cũng bay như anh. Sau những chuyến bay họ mang về cho vợ con họ những thứ cụ thể. Còn anh chỉ thấy mang về cho vợ con anh những thứ ngớ ngẩn, hão huyền, hết sức vô dụng".

"Em im đi. Em khác xưa quá nhiều rồi đấy".

"Tôi không khác gì xưa cả. Chẳng qua anh không nhận ra sự thật của cuộc đời này mà thôi".

Mẹ cô nói và đứng phắt dậy đi sang phòng bên. Ba cô lắc đầu và đốt thuốc hút.

Sau lần ấy, sau mỗi chuyến bay trở về, ba cô lặng lẽ và hay thở dài. Ông không còn háo hức kể về những chuyến bay của ông như trước nữa. Một hôm cô hỏi người cha.

"Sao ba không kể cho con nghe về chuyến bay của ba?".

Người cha cúi xuống nhìn cô. Rồi như quên hết mọi phiền muộn, ông lại say sưa kể cho cô nghe về một vùng trời nào đó của ông. Phòng bên cạnh, mẹ cô vứt mạnh những vật gì đó và mắng chửi cay nghiệt con mèo hoa tội nghiệp. Người cha ngừng câu chuyện đang kể cho cô con gái của ông. Ông bước sang phòng mẹ cô. Và cô nghe thấy tiếng ba cô rất nhỏ.

"Em làm gì thế? Em có biết anh đang nói chuyện với con không?".

"Con My lớn rồi. Nó sắp ra trường và phải đi làm. Cần phải giáo dục cho nó biết những điều cụ thể của cuộc đời mà nó sẽ đón nhận, chứ không phải những điều lảm nhảm vô bổ".

"Chính cô đang phá hoại tâm hồn của con, cô biết không. Trước hết con người phải có một tâm hồn đẹp, rộng lượng và biết tha thứ, chứ không phải là một con người tham lam ích kỷ hay thù vặt".

"Vâng, tôi tham lam, tôi ích kỷ và hay thù vặt. Nhưng thưa anh, tôi còn biết lo toan trước mỗi bữa ăn của con, còn anh, anh viển vông và điên rồ quá rồi".

"Như vậy - Cha tôi chợt im lặng rất lâu - như vậy chẳng còn gì cho chúng ta có thể nói chuyện với nhau được nữa".

Nói xong ba cô bỏ đi ra khỏi nhà, mãi khuya ông mới trở về.

Một buổi sáng ít ngày sau đó, người cha phờ phạc nói với cô: "Ba và mẹ đã quyết định chia tay nhau. Chắc con cũng tự biết trước điều này". My nấc lên khi nghe người cha nói vậy. Cô bỗng thấy hoảng sợ và cô đơn khủng khiếp. Buổi tối đó, cô đến trước mẹ cô. Cô ngồi xuống trước mẹ rất lâu và nói.

"Mẹ nghĩ lại đi, mẹ ạ".

"Con ranh con - Mẹ cô trừng mắt giận dữ - Mày cũng nhiễm cái thói mơ mộng vô bổ của ba mày rồi đấy. Cuộc đời sẽ dạy cho mày biết".

Rồi ba mẹ cô ra tòa và lặng lẽ chia tay nhau. Mẹ cô về ở với bà ngoại cô và lấy một người đàn ông khác sau đó năm tháng.

My ở lại với người cha và gấp rút chuẩn bị cho năm học cuối cùng ở trường Mỹ thuật. Người cha vẫn thỉnh thoảng xa nhà với những chuyến bay. Ông ít kể về những chuyến bay của ông. Nhưng vào những buổi hoàng hôn, ông thường ngồi im lặng trên chiếc ghế bành bọc vải nhung nhìn qua cửa sổ.

Khi My vừa kết thúc năm học cuối cùng thì cha cô bị tai nạn giao thông và bị liệt nửa người. Biết bệnh tình của người cha khó có thể hồi phục. My quyết định ngừng xin việc làm. Cô mở lớp dạy vẽ và tiếng Anh cho bọn trẻ con cùng phố để kiếm tiền sinh sống và tiện có thời gian chăm sóc cha. Đêm đêm cô thường phải thức giấc nhiều lần để trở mình cho cha và giúp ông tiểu tiện, và ngày ngày, khi hoàng hôn từ từ buông xuống, ông lại yêu cầu cô đỡ ông ngồi vào chiếc ghế bành bọc vải nhung để nhìn về phía vòm trời nho nhỏ qua ô cửa sổ. Khi bóng tối đã trùm kín căn phòng thì người cha thì thầm: "Vùng trời... vùng trời, cha muốn trở lại... vùng trời". Những lúc ấy, giọng người cha lạ lùng và xa xăm. Cô cảm thấy rùng mình và thương cha vô hạn.

Một đêm trong căn phòng của cô đầy mùi thuốc vẽ, trong đầu cô lóe lên ý nghĩ mang lại cho người cha vùng trời của ông về trên toan. Sau ý nghĩ ấy, cô lao vào giá vẽ. Cô vẽ trong sự hoảng sợ mộng mị và mơ hồ về người cha. Và suốt hơn một năm qua cô đã vẽ, đã thất vọng và đã khóc.

Đêm đêm, cô đứng lặng hàng tiếng đồng hồ bên cửa sổ nhìn mãi vào vùng trời có những ngôi sao bé bỏng, ướt át và đầy bí ẩn kia. Cô như thoáng nghe thấy tiếng nói thì thầm của những ngôi sao và những vầng mây bạc trong những đêm sáng trăng. Cô nghe thấy cả tiếng bầy kiến gọi nhau trên những song cửa sổ trong cuộc hành trình muôn đời không ngủ của bầy kiến. Cô nghe thấy cả tiếng con chuột lơ đễnh rơi từ giàn gấc xuống vườn. Một cảm giác lãng đãng và bạc trắ
ng lan tỏa khắp cơ thể cô. Cô lao vào giá vẽ và vẽ cho đến khi tưởng chừng như kiệt sức. Để rồi sáng sau tỉnh giấc, cô lại khóc cho những mảng mầu lạnh lẽo và bất động.

Mấy ngày trước, vào một buổi sáng có nắng, cô mang chiếc va-li đựng những đồ lặt vặt của người cha ra phơi. Trong va-li cô thấy cuốn nhật ký của người cha. Cô cầm cuốn nhật ký bước vào hiên nhà ngồi xuống và đọc.

"Đêm qua mình tỉnh giấc mà Lan (tên mẹ cô) không hay biết gì. Hình như chưa bao giờ Lan mất ngủ. Lan vẫn đẹp và đầy sức sống như ngày mới cưới. Và... Lan chưa bao giờ hiểu mình. Sao những đêm tỉnh giấc mình hay nghe thấy những tiếng gì đó mơ hồ gọi mình. Mình thấy cô đơn".

"Mình đã sống một tuổi thơ đầy cô đơn và ốm yếu. Không quên nổi những chiều mưa mờ mịt bên bờ sông Hàn. Ba đi thuyền chưa về. Má cũng đi chợ xa bán cá. Ngôi nhà lá nhỏ bên sông lúc nào cũng tối và đầy mùi ẩm ướt của mùa mưa. Mình ngồi thu lu trong góc nhà. Đói và tủi. Rồi ba má mất sớm, mình theo một người bác đi thuyền. Đã bao nhiêu buổi chiều mình ngồi khóc nức nở trong mưa trên mui thuyền".

"Cái mình cần là hơi ấm của con người. Nhưng đời sống càng đầy đủ thì con người càng xa nhau. Cái mà những người đang sống quanh mình tìm kiếm là đồng tiền. Đồng tiền hết sức cần thiết. Nhưng vì nó mà con người lao vào như rồ dại, cắn xé lẫn nhau, nghi ngờ nhau và căm thù nhau".

"Sao từ ngày cưới nhau đến giờ, Lan chưa một lần thức dậy trong đêm và thì thầm những điều gì đấy với mình. Lan giày vò mình vì những chuyện gia đình như sắm sửa, xây cất. Lan bực tức với những người giàu hơn và tỏ vẻ khinh bỉ những người đói kém. Mình đã từng đói khát và tủi nhục. Nhưng mình không thể sống được khi chỉ nghĩ đến cái dạ dày căng tròn và lầy nhầy".

"Những lần bay qua những vùng trời vô tận, sao mình cứ ước được bước ra khỏi khoang lái. Tất cả những gì trong khoảng mênh mông của vũ trụ mà mình cảm nhận được lại làm cho mình yên tâm tin mình khi đi trên mặt đất. Những cơn mê làm mình hạnh phúc và muốn khóc. Mình thèm khát được ngồi im lặng trong hoàng hôn và vùi bàn tay trong mái tóc đẹp lạ lùng của Lan. Lan không bao giờ ý thức được trong bóng tối. Lan quá rành rọt với những thứ mà có thể đếm được dưới ánh sáng đơn giản".

Đêm nay hình như trời trong hơn. Có lẽ cũng đã khuya. My áp mặt vào những song gỗ cửa sổ. Bỗng cô nghe thấy tiếng cha gọi. Cô vội vã đẩy cửa bước sang phòng người cha.

"Có con rắn... đang quấn... chân ba".

Nghe người cha nói, My hốt hoảng lật chiếc chăn dạ mỏng và sờ soạng đôi ống chân người cha. "Không có gì đâu ba ạ. Chắc ba mê ngủ đấy", My nói và ngồi xuống mép giường bóp chân cho cha.

"Nó bò đi rồi hả con?" - người cha thì thào.

My không nói được. Cô gật đầu, khi người cha trở lại giấc ngủ, cô đứng dậy tắt đèn và trở lại phòng mình. Cô bước trang nghiêm và quyết liệt đến bên giá vẽ. Cô nhìn xuống và nhìn ra cửa sổ. Những ngôi sao như đang bay về. Hình như đêm nay có trăng non. Những song gỗ cửa sổ ánh lên. Cô ngửi thấy hương Anh My, tiếng hót của bầy Tao Linh, tiếng ríu rít của bầy trẻ trong suốt như pha lê. Cô thấy đôi mắt người cha căng lên như hai tấm toan chờ đợi.

"Con, My đâu... con... " - người cha gọi.

My lảo đảo bước sang phòng cha. Cô bật đèn.

"Ba gọi con ư?".

"Ba thấy người nóng quá. Hôm nay mẹ con có đến không?"

"Có ba ạ" - Cô trả lời sau một thoáng lưỡng lự.

"Mẹ bảo gì con không?".

"Mẹ đến thăm ba" - Cô cố gắng nói.

"Có bao giờ con thấy mẹ khóc không?".

"Dạ...".

"Ba thấy... nóng quá, mà, mà lạ lắm. Mẹ có khóc hả con? Mẹ đến thăm ba sao không nói cho ba hay. Lan... có khóc...".

"Ba ngủ đi ba. Mai con sẽ mượn cái xe đẩy để đưa ba ra Hồ Tây".

My kéo tấm chăn dạ mỏng đắp ngực người cha. Rồi cô trở về phòng mình và ngồi xuống trước giá vẽ. Cô thấy người nóng lên ghê gớm. Cô cầm lấy bút vẽ. Cô bật hai ngọn đèn dùng để vẽ đêm mà ba cô đã mua cho cô.

Đến gần trưa hôm sau My mới tỉnh dậy. Khi vẽ xong cô kiệt sức và gục xuống sàn nhà. Cô mở mắt ngơ ngác. Nắng tràn ngập ô cửa sổ phòng cô. Cô nhìn vào bức tranh và kinh ngạc. Cô nhận thấy có bóng cha cô trong suốt đang bay trong đó. Cô nhớ đến cha. Cô vội chạy sang phòng cha. Người cha nằm yên lặng. Gương mặt ông như đang trôi trong vô tận.

Người cha đã trút hơi thở cuối cùng khi My vẽ xong nét vẽ cuối cùng.

My quỵ xuống bên mép giường. Hình như cô nghe thấy người cha hổn hển hỏi: "Có bao giờ con nghe thấy mẹ khóc không?". Đôi môi cô mấp máy như trả lời: "Mẹ sẽ khóc, ba ạ".

Mùa thu giấu em - Uyên Phương



Có phải mùa thu giấu em lâu đến thế

Để cuối con đường anh kịp nhận ra em...

Tôi phóng xe giữa đại lộ. Hàng cây ven đường thả xuống ngọn gió mơn man sau gáy nghe lành lạnh. Tôi rồ ga, ngọn gió vội vã đuổi theo. Và hai chúng tôi cùng chơi trò rượt đuổi trên con đường rộng thênh thang.

Thu xuất hiện đằng sau cánh cổng. Nhìn thấy cái đầu bù xù dựng đứng lên vì gió của tôi, em nhăn mặt:

- Anh lại đua tốc độ rồi phải không?

Tôi nháy mắt, thì thào:

- Có một ngọn gió heo may đuổi theo anh bé ạ!.

Em chỉ tay lên vòm cây xanh trong vườn:

- Đêm qua cũng có một cơn gió làm rụng bao nhiêu là lá vàng. Mùa thu đã về rồi đấy, anh thấy không?

Tôi lắc lắc thân cây gần nhất. Một trận mưa lá rơi lả tả xuống hai chúng tôi. Em nhăn mặt, phụng phịu:

- Anh này ác ghê! Tránh đừng động vào cây mùa lá rụng, không nhớ sao?

Tôi đưa tay gỡ một chiếc lá vương lơ lửng trên tóc em:

- Lại thơ Olga Berggholz hả cô bé? Tại cái giống cây này đấy chứ, sao mà rụng lá đến khiếp!

Và tôi quay đi, biết là sau lưng em lại vừa tặng tôi một cái nhăn mặt!

Em và tôi đã cùng nhau đi qua cả một thời niên thiếu. Em mỏng manh và yếu đuối từ khi còn bé. Còn tôi, một thằng con trai tai quái suốt ngày chọc ghẹo em. lắm khi khiến em phải phát khóc. Vậy mà em chẳng khi nào giận tôi lâu. Có lần, tôi làm em ngã đập đầu xuống đất. Máu rướm thành dòng trên trán em, vậy mà em vẫn ríu lấy tay tôi (lúc đó mặt mũi tái mét!) thỏ thẻ:

- Em không giận anh đâu! Em không giận anh đâu!

- Anh nhìn gì thế?

- Vết sẹo trên trán em. Xấu... dễ sợ!

Tôi vờ chun mũi. Em xịu mặt:

- Ừ, em làm sao mà xinh bằng chị Quỳnh, chị Vy, chị My của anh được!

Nhìn cánh mũi em phập phồng, biết là em sắp khóc, tôi vội đến bên:

- Em đang vẽ cái gì thế, bé?

- Con đường mùa thu, anh ạ!

Bức tranh của em thẫm một sắc màu vàng trầm buồn. Con đường trong đó hiện ra mênh mang, những nhánh cây như những ngón tay gầy guộc đâm thẳng lên nền trời hoàng hôn vàng úa. Tôi bỗng thấy mình lại như đang phóng xe chạy đua với ngọn gió trên đại lộ ban chiều.

- Cái gì thế này, bé? - Tôi trỏ tay vào những chấm màu nâu sẫm trên các thân cây.

- Những vết sẹo của cây...

- Giống như vết sẹo trên trán em ấy hả?

- Không... - Giọng em bỗng chùng hẳn xuống. Em đưa ngón tay mân mê vết sẹo trên trán, mắt xa xăm - Vết sẹo này có là gì đâu hở anh, có những vết sẹo khác, vô hình nhưng mà làm mình đau hơn nhiều.

Tôi cúi xuống, nhìn thật lâu vào đôi mắt em:

- Em biết suy tư từ bao giờ thế?

Em cúi mặt:

- Từ lúc anh vô tình...

Những ngón tay mỏng manh, gầy xanh như một cọng cỏ non của em run rẩy trên đầu gối. Tôi chợt hiểu ra điều em muốn nói, và thấy bối rối như thể lòng mình là một đống rơm mà ai đó vừa bới tung lên.

Biết nói gì với em bây giờ?

Ngoài sân, trời không gió mà cây bỗng trút lá.

- Rồi sau đó anh nói gì với Thu? - Phong, cậu thanh niên có đôi mắt to tròn như con gái nhìn thẳng vào tôi, ánh mắt quả quyết và sáng lấp lánh.

- Chẳng gì cả. Tôi chỉ bảo là tôi có hẹn với Quỳnh, và tôi phải đi...

- Anh biết là cô ấy yêu anh chứ! - Phong hét lên, khoé miệng mím lại thànhmột vệt ngang giận dữ.

Tôi biết chứ. Dù tôi không còn nhớ là mình bắt đầu cảm nhận được tình cảm của em từ khi nào. Có lẽ là từ những chiều chủ nhật, tôi đến và em ùa ra từ sau cánh cồng, hồn nhiên như cỏ non: "Em đợi anh suốt cả ngày dài". Cũng có thể bắt đầu từ cái ngày mẹ em theo dượng em sang Nhật, em ôm lấy tôi và khóc nức
nở không thôi trên phi trường: "Giờ em chỉ còn có mỗi mình anh nữa thôi...". Nhưng có lẽ hôm ấy là lần đầu tiên, em thể hiện rõ tình cảm của em dành cho tôi như thế.

"Và anh đã quay đi".

Bởi vì thằng con trai ích kỷ và tự mãn trong tôi biết rằng, em sẽ ở bên tôi, dù tôi có hay không câu trả lời cho em. Dù tôi có đi với Quỳnh, với Vy, với My hay bất cứ ai đi nữa, dưới vòm cây xanh mát trong vườn, em vẫn lặng lẽ chờ đợi tôi với cây cọ vẽ và những ngón tay xanh mềm. Và có lẽ bởi vì tôi chưa sẵn sàng cầm những ngón tay mong manh ấy để dắt em vào thế giới của tôi, cái thế giới ồn ào, sôi động và lắm khi trần trụi hơn rất nhiều so với thế giới của em.

Nhưng tôi không ngờ, đến một ngày nọ, em đã xa tôi mãi mãi...

Một bữa chở Quỳnh ra ngoại ô hóng gió, ngang qua nhà em, tôi thao thao kể về ngôi nhà với khu vườn rợp bóng cây và cô em gái nhỏ mê vẽ. Quỳnh nằng nặc đòi tôi chở vào chơi. Nghe tiếng tôi, em ùa ra như mọi khi. Nhưng rồi những ánh sáng trong đôi mắt trong veo của em bỗng như vụt tắt khi em nhìn thấy Quỳnh. Em vẫn dịu dàng trả lời những câu hỏi líu ríu của Quỳnh, nhưng bàn tay cầm cọ thì run rẩy, đường cọ loay hoay hoài trên một mảng màu đã khô nhạt từ lâu.

"Anh ơi, hay chưa này?". Quỳnh lắc lắc thân cây ở góc vườn. Một trận mưa lá ào xuống. Quỳnh thích thú, cười như nắc nẻ. Nhìn vẻ mặt hớn hở hồn nhiên của Quỳnh, tôi cũng bật cười theo. Sau lưng tôi, đôi vai em dường như đang run rẩy...

Từ hôm ấy, em không còn chờ tôi dưới vòm cây trong vườn nữa. Chiều chủ nhật sau tôi đến, bà giúp việc bảo em đến Nhà văn hoá. Tôi chạy xe đến Nhà văn hoá, hình dung khuôn mặt rạng rỡ của em khi nhìn thấy tôi như mọi khi. Nhưng lần này, em không chỉ có một mình...

Bên em là một cậu con trai có đôi mắt to tròn và mái tóc bồng bềnh nghệ sĩ. Em đi ngang qua tôi, lạnh lùng như không nhìn thấy. Lần đầu tiên, tôi có cảm giác hụt hẫng như vừa cắn vào một qua kẹo bông xốp mềm. Tôi còn gặp em thêm vài lần nữa, trước cổng trường, ở Viện Mỹ thuật, hoặc khi tôi chạy xe ngang qua và thấy loáng thoáng bóng em trong vườn. Và em, vẫn bên cạnh cậu con trai ấy, vẫn yếu ớt mong manh như thế, nhưng điệu đàng hơn với chiếc mũ len trên đầu. Tôi lao vào những cuộc vui với Quỳnh, với Vy. Để rồi khi mệt rã rời, tôi chỉ muốn chạy đến bên em, để được ngắm những ngón tay cỏ non của em dưới vòm cây đầy gió ấy. Nhưng, tôi đã không đến, dù đôi lúc nhớ em đến tê người...

Mãi cho đến khi tôi gọi anh?". Tôi khe khẽ gật đầu. Phong vùi mái tóc rối của mình vào hai bàn tay. Rồi cậu ngẩng lên, đôi mắt mờ một làn sương mỏng:

- Anh biết không. Những ngày trên giường bệnh, cô ấy vẫn không thôi nhớ đến anh...

Hôm ấy là một buổi chiều xám xịt. Tôi phóng xe như điên khi nhận được điện thoại của Phong. Em đang ngủ vùi mê mệt trên giường bệnh khi tôi đến. Tôi nắm những ngón tay gầy guộc của em, xót xa...

Em mở mắt nhìn tôi, đôi môi tái nhợt, khô nẻ hé ra một nụ cười yếu ớt. Tôi áp đôi bàn tay bé bỏng của em lên má, thầm thì gọi tên em mãi không thôi...

Đó cũng là lần cuối cùng em mỉm cười với tôi. Em đã bỏ tôi đi vào một buổi chiều gió heo may xao xác khắp thành phố. Phong trao cho tôi một cuốn sổ bìa xanh: "Thu nhờ tôi gửi cho anh...". Tôi lật cuốn sổ, ngay trang đầu tiên là nét chữ nhỏ nhắn quen thuộc của em với hai câu thơ của Olga Berggholz:

Tránh đừng động vào cây - mùa lá rụng

Nhắc suốt đường dài cũng chỉ bấy nhiêu thôi...

Tôi phóng xe giữa đại lộ. Ngọn gió quen thuộc lại sà xuống, rủ rê tôi chơi trò đuổi bắt. Tôi dừng xe bên đường, ngước nhìn vòm cây xanh lấp lánh những ánh nắng như mắt em đang nhìn tôi tinh nghịch. Tôi thầm thì: "Có em trên đó không Thu?".

Một chiếc lá vàng trên vòm cây đậu xuống vai tôi. Tôi nhặt chiếc lá cho vào túi áo. Dường như chiếc lá đang thủ thỉ điều gì đó với trái tim tôi.

Em chỉ trốn tôi đâu đó trong mùa thu thôi, phải không cô bé?

Thursday, July 3, 2008

Phía bên kia núi - Nguyễn Thiên Ngân

Làng nằm lọt thỏm giữa những ngọn núi. Bên kia núi là một làng khác? Một dòng sông? Hay mãi cứ một con đường không có điểm dừng? Nàng không biết.

Những người đã đi qua núi đều không trở về. Cho đến ngày anh không trở về nữa, thì nàng tin bên kia núi là địa ngục. Anh đã hứa rằng chỉ khi phải chết, anh mới xa nàng.

Giữa làng có một cái hồ nước lớn. Người làng sống kín đáo, ẩn dật đến đáng sợ. Những người từ phương xa đến đổi trà cứ mỗi ba tháng mới được vào làng một lần. Tất cả họ đều phải long trọng thề rằng ngoài trà - sản vật trao đổi được với dân làng bằng những nhu yếu phẩm khác - họ không được mang theo bất cứ điều gì: những câu chuyện về làng, những điều hơi lạ lùng mà họ thấy. Họ cũng không được mang đến bất cứ thông tin nào từ thế giới bên kia núi. Trái lời, sớm muộn gì họ cũng sẽ bị thần Hồ trừng phạt.

Và quả thật, sau cái chết của một người đổi trà nào đó năm xưa, không ai dám khinh mạn thần Hồ. Anh ta chết thảm khốc sau lần dan díu với một cô gái trong làng và định đưa cô trốn đi. Trên đường dẫn cô gái chạy trốn trong đêm, anh ta ngã xuống hồ và nhanh chóng bị thần Hồ nhấn chìm trong tuyệt vọng. Khắp người mang nặng những bao trà vừa đổi trong mấy ngày trước đó, anh ta không thể nào bơi được. Xác anh ta trôi lênh đênh giữa hồ ba ngày ba đêm. Những người làng chạnh lòng thương mang thuyền ra vớt nhưng như có một bàn tay vô hình ngăn cản, không ai chạm vào anh ta được. Người già trong làng phải ra hồ cầu khấn hồi lâu, cái xác kia mới cập vào mạn thuyền.

“Vì sao con muốn ra đi? Tại sao con phải trốn? Chỉ cần con nói thực là muốn từ bỏ dòng tộc, quê hương, chúng ta sẽ để cho con đi thôi mà”. Trưởng làng ôn tồn nhìn sâu vào mắt cô gái đang ngây điếng ôm xác người tình, nói lời khó nhọc. Cô gái bật khóc, rồi lại rú lên cười man dại. Ít tháng sau, bụng cô dần to lên. Câu chuyện đó xảy ra cũng đã lâu rồi…

***

Sinh anh xong, mẹ anh trẫm mình xuống hồ. Trưởng làng tự tay chèo thuyền ra giữa hồ vớt cô lên, đôi mắt đỏ kè như đang khóc. Cô được chôn cất với những mảnh lụa bạch lấy từ kho lụa táng của làng quấn quanh người, nghi thức như với bao người làng khác. Không ai bình luận về nghi thức có phần thiên vị đó, dành cho đứa con gái hư hỏng từng định bỏ làng mà đi, và giờ thì tự tử theo người tình, để lại đứa con hoang. Chỉ có điều, cặp tình nhân không được nằm cạnh nhau. Cô yên nghỉ trong nghĩa địa làng quanh năm tung bay cờ lụa trắng và ngập tràn mùi hương nhài. Còn người yêu cô, nằm chơ vơ trong nấm đất nhỏ bên con đường lớn, nơi anh ta từng vượt qua để đến được làng này. Con đường ấy dẫn về phía bên kia núi.

Đứa bé trai vừa ra đời được trưởng làng mang về nhà nuôi, cho bú nhờ con gái ông, lúc này cũng vừa sinh một bé gái. Bé gái ấy là nàng. Người làng rỉ tai nhau, đó là do lương tâm ông cắn rứt, vì những lời cuối ông nói với cô gái kia hồ như đã góp phần dồn đẩy cô tìm cái chết.

***

Những ngày thơ ấu, nàng và anh thường chạy đuổi nhau len lỏi qua những đồi trà rồi ngã phệt xuống nghỉ bên ngôi mả hoang ấy. Anh tần ngần nhổ những chân nhang cũ nhạt màu lên, nhìn thật lâu như muốn rõ điều gì. Lúc ấy, cả hai đứa trẻ đều chưa biết về người nằm dưới mộ. Nhưng sau này lớn lên, biết chuyện, nhớ lại ánh mắt anh rưng rưng khi thì thầm trò chuyện với những chân nhang, nàng hiểu được mối ràng buộc vô hình của tình máu mủ, dù họ chẳng bao giờ có cơ hội biết về nhau.

Hai đứa trẻ nằm gối đầu lên mộ, cố đặt tên cho hình thù của những đám mây trên bầu trời xanh. Chán chê, nàng hỏi anh con đường này sẽ dẫn tới đâu, bên kia núi có những gì… Anh trầm ngâm hồi lâu rồi quay sang thì thào: “Ngôi mộ này không phải của người làng. Bên kia núi chắc phải có một làng nào đó…”.

Ông ngoại nàng yêu thương anh một cách lạ lùng. Lúc nào ông cũng cao vời, đường bệ với tư thế oai nghiêm của một trưởng làng, đôi khi lạnh lùng đến đáng sợ. Nhưng riêng với anh, ông yêu chiều ra mặt. Anh lớn lên, thông minh đĩnh ngộ. Hầu những bữa trà sớm hay đêm trăng của ông, không chú tiểu đồng nào có thể làm ông vừa ý, ngoài anh. Đôi lúc ông cao hứng đọc thơ cho anh nghe, đôi khi lại bồn chồn tâm sự như với người tri âm, tri kỷ.

Có lẽ, tất thảy sự ân hận năm nào đã chuyển thành một tình thương mến. Ông ôn tồn, dịu nhẹ, chẳng mắng anh bao giờ, kể cả khi anh gây ra tội lỗi tày đình nhất. Lừa khi ông ngủ, anh lén lấy chơi rồi làm vỡ miếng ngọc quý hộ thân mà lúc nào ông cũng đeo bên mình. Ông nhìn những mảnh vỡ đầy đau xót, thu nhặt chúng cho vào một túi lụa nhỏ rồi bỏ đi, không nói tiếng nào. Cả nhà ngơ ngác nhìn nhau, còn anh thì cởi trần quỳ giữa sân, run bần bật, nhưng một trận roi nát da nát thịt đã không xảy ra.

Tuổi thơ anh trôi qua yên bình, anh chẳng hề thắc mắc vì sao mình không có cha, yên lòng với câu chuyện thô vụng mà người làng bịa ra dưới lệnh của ông. Ai đó đem trồng cạnh mộ mẹ anh một cây nguyệt quế. Ít lâu sau nó ra hoa rải trắng một vùng. Trên thảm hoa đó, không ít lần nàng thấy anh cô đơn nằm khóc, trong nỗi đau vô thức về thân phận mình. Nàng nhặt những đóa hoa tinh khôi kia cho vào túi lụa nhỏ đặt trên đầu giường anh. Đến lần thứ bao nhiêu đó thì anh bắt được. Ấy là lần đầu tiên anh hôn nàng. Năm đó, cả hai đều vừa mười sáu tuổi.

***

Lần đầu tiên ông ngoại nàng trừng phạt anh là khi ông bắt gặp họ hôn nhau ở bụi nguyệt quế ấy. Ông sững sờ đánh rơi những hoa ­huệ trắng đang cầm trên tay, xềnh xệch lôi anh ra hồ. Ở đó, ông nhấn nước anh thừa sống thiếu chết, cùng với những cái tát túi bụi vào mặt. Phải đến khi gần như cả làng kéo ra can ngăn, ông mới buông anh, đã tơi tả như một miếng giẻ rách nát te tua ra, ném vào anh cái nhìn phẫn nộ rồi phừng phừng bỏ đi.

Họ bị cách ly gắt gao, nhưng không bao giờ chịu đầu hàng. Trong mắt làng tộc, hai đứa cháu đáng yêu bỗng trở nên lì lợm, bất trị. Không được đến gần nhau, nhưng ánh mắt đắm đuối chúng dành cho nhau như thách thức mọi lời cấm đoán. Không biết bao đêm mẹ nàng đã khóc lóc, chỉ thiếu điều van xin con gái. Tình yêu ấy quá tội lỗi. Con và nó đã lớn lên cùng nhau, bú chung bầu sữa, có chung một gia đình. Làm sao con có thể yêu chính anh trai mình?!

Lần thứ hai, ông bắt gặp anh ôm nàng giữa gian phòng thơm ngát những khay trà vừa sấy. Ông tuốt cây kiếm treo bên tủ thờ kề ngay cổ anh, mắt vằn lên những tia máu: “Tao nhắc lại lần nữa, tránh xa nhau ra, nếu không tao giết hết!”. Ông bất chợt vung kiếm, chém bay một bím tóc của nàng, run giọng: “Mày… mày nghĩ mày có thể quyết định cuộc đời mày sao? Với thằng con hoang này?!!”. Bóng kiếm sắc lạnh soi rõ niềm đau đớn trong mắt anh. Nàng không sợ chết. Nhưng nàng hốt hoảng nhận ra vòng tay ôm của anh đã dần lơi đi.

Ít lâu sau đó, anh bỏ đi khỏi làng. Anh trốn theo đoàn người đổi trà, men theo con đường qua ngôi mả cũ dẫn đến phía bên kia núi. Nơi đó, anh tin có một ngôi làng khác…

Đọc bức thư anh để lại, trưởng làng ngồi ôm đầu ở bậc cửa, không nói một lời. Rồi ông đứng dậy, rút cây kiếm sắc đâm một nhát thật lực vào bục gỗ gần tấm phản, chỗ anh hay quỳ để hầu trà… Nhiều năm sau, cây kiếm vẫn còn cắm nguyên ở đó.

Còn nàng, tự giam mình trong nhiều ngày, khóc đến kiệt sức. Không khí trong gia đình nặng như đá. Người làng có chuyện để xầm xì.

Khi nỗi đau kia tưởng đã dần nguôi, tóc nàng đã dài trở lại, thương nhớ trong nàng dường đã chai đá thì anh đột ngột trở về. Đứng lẫn trong toán người đổi trà đang long trọng tuyên thệ trước thần Hồ, không ai nhận ra anh. Nhưng nàng, dù bộ râu quai nón kia xa lạ đến mức nào, dù nước da anh đã xạm đen đến đâu, dù anh đã cao lớn rắn rỏi ra sao, nàng làm sao quên nổi đôi mắt u buồn kia. Đôi mắt đã ám ảnh trái tim nàng từ hồi thơ dại. Nàng đánh rơi nong trà. Anh giật mình quay đi, khuất sau những dải lụa màu chấp chới.

Nàng len lén nấp sau những dải cờ lụa trắng ngoài nghĩa trang, lặng lẽ khóc khi thấy dáng anh quen thuộc bên cây nguyệt quế cạnh mộ mẹ. Rồi không thể nào chịu nổi, nàng vùng chạy đến ôm chầm lấy anh. Tấm lưng anh giờ đã rộng, đã vững chãi lắm rồi. Nàng nghe thấy mùi mồ hôi ấm áp, quen thuộc lẫn với mùi gió, mùi núi sông sau lần vải áo thô kệch. Anh lập cập quay lại ôm chặt nàng, mắt đẫm nước. Chiếc cằm đầy râu mấp máy, run run không nói nên lời. Nàng chùi nước mắt vào ngực anh, nói câu đầu tiên sau bốn năm chia cách.

- Đưa em đi!

- Đi đâu? - anh thảng thốt.

- Sang bên kia núi.

Đêm hôm đó, trong trí nhớ của ông, trời tối đen giống hệt năm nào chàng trai đổi trà định dẫn cô gái làng bỏ trốn. Ông đứng đợi bên hồ, tay cầm cây kiếm đã từng kề cổ anh, đã thô bạo cắt đứt bím tóc nàng và cô đơn cắm trên bệ gỗ với những nỗi niềm suốt từng ấy năm anh lưu lạc. Nó tưởng ông không nhận ra nó sao? Dáng người ấy, đôi mắt ấy, cung cách cam chịu ấy… Nó đã lớn lên trong tầm mắt ông, từng ngày, và trong cả trái tim ông nữa.

Đôi trai gái dắt díu nhau đi trong bóng tối. Họ lạc ra phía hồ. Anh nắm tay nàng rất chặt, và nàng biết anh đang vã mồ hôi vì sợ. Luật làng từ thời ông trưởng làng đầu tiên, là ông cố nàng đề ra, từ bé anh đã thuộc lòng. Lời thề với thần Hồ và cái chết truyền kỳ của anh chàng đổi trà năm xưa ám ảnh tâm trí anh. Anh chỉ định trở về để nhìn thấy nàng một lần. Vả lại, ngày đi anh chưa kịp ra mộ mẹ…

- Đứng lại! - giọng ông khản đặc. Ánh kiếm lóe lên như vệt trăng mờ xám lạnh.

Hai đứa quỳ sụp xuống. Nàng khóc òa:

- Ông để bọn con đi.

Ông thẫn thờ ném cây kiếm xuống đất khi nghe tiếng khóc của đứa cháu gái xinh đẹp. Nó đang van xin ông hãy cho nó được hạnh phúc. Ông quỳ phệt xuống trước hai đứa. Mơ hồ, ông nghe tiếng hai đứa ngày nào thơ bé, ca hát rộn ràng. Âm thanh nao nức, vui tươi như vọng về từ ngày tháng xa xưa… Xen vào đó là hình ảnh chập chờn, kinh hãi của một quãng đời ông không bao giờ ông muốn nhớ…

***

Năm ấy, cha ông hận người vợ bội bạc nên dắt ông - lúc đó mới ba tuổi - bỏ đi. Cùng một số dân nghèo không có đất, ông vượt núi đến vùng này lập làng. Cha ông trở thành trưởng làng, đề ra bao quy ước quái lạ, vin vào lời nguyền của thần Hồ. Ai muốn bỏ vùng này ra đi phải tuyên hứa giũ bỏ quê hương, máu mủ và dứt khoát không được trở về.

Không ngờ, chính ông - con trai trưởng làng - lại là người đầu tiên rời bỏ đất. Ông say sưa với thế giới rộng lớn bên ngoài, yêu và được yêu, nhưng rồi đến phiên ông cũng bị người đàn bà ấy phụ bạc. Ẵm đứa con gái khóc ngằn ngặt vì khát sữa, ông chẳng biết đi đâu. Rồi cuối cùng ông quyết trở về làng. Cha ông thương đứa con trai nông nổi, đã dựng nên một câu chuyện để có thể đón ông trở về. Không lâu sau đó, cha cưới cho ông một cô gái làng nhu mì, hiếu thuận. Còn đứa bé gái được gửi cho một bà góa nuôi, giấu biệt tung tích.

Ông chỉ có thể đứng xa nhìn nó từ lúc lẫm chẫm theo bà góa đi hái trà cho đến khi biết nhảy chân sáo và chơi trốn tìm giữa những đồi trà xanh biếc. Ông đau đớn tột cùng khi nhận ra, càng ngày nó càng xinh đẹp giống hệt người mẹ bội bạc của mình. Chưa bao giờ ông được ở gần con gái như cái ngày chèo thuyền ra giữa hồ để bế bồng thi thể nó lên.

Lúc ông chạm vào thi thể cóng lạnh ấy, khóe miệng nó ứa đầy máu tươi. Ông đã lén chùi sạch vết máu ấy trước khi đưa nó lên bờ, tránh ánh mắt dò xét của người làng. Con gái ông, đứa con gái không được thừa nhận, rồi cũng đến phiên nó muốn theo người lạ rời làng, mà không biết đằng sau ngọn núi kia là bao gian dối…

Anh buông tay nàng ra. Đêm đó, cả ba linh hồn đều gục chết sau lời sám hối của ông và những bí mật kinh khủng được tiết lộ.

***

Chàng buôn lụa có đôi mắt buồn rời làng một mình vào lúc rạng đông. Ngang ngôi mả hoang bên đường dẫn qua núi, anh quỳ xuống, rút mấy chân nhang cũ, dập đầu lặng lẽ khóc. Rồi, anh đứng lên đi tiếp chặng đường qua phía núi bên kia.

Không ai thấy cảnh ấy. Làng đang có đại tang. Sáng hôm đó người ta thấy thi thể vị trưởng làng nổi lềnh bềnh trên hồ. Thần Hồ lại lấy đi một mạng người.

Cô cháu gái xinh đẹp của ông ngồi câm nín bên bờ hồ, tóc đẫm sương đêm. Không ai đọc được trong đôi mắt ngây dại của nàng hằn in chỉ một khoảnh khắc: anh vụt đứng dậy chạy điên cuồng trong bóng đêm, và nàng không còn thấy gì nữa.

Chỉ còn lại nàng và ông. Ông cúi xuống vỗ về nàng, nói khẽ lời hối lỗi ngàn lần rồi từ từ bước về phía hồ thăm thẳm kia, với một vẻ cương quyết và thanh thản lạ lùng mà nàng biết.

Không phép lạ nào trên đời này có thể níu giữ bước chân ông lại…