My schedule

- Một tách cafe sớm
- Đọc báo
- Lướt web
- Đọc truyện

Sunday, May 11, 2008

Hai người mẹ - Biên Thùy

Cái nghĩa địa xe hơi không biết mọc lên từ lúc nào mà nó phình ra, choán hết cả một vùng đất lớn cạnh nghĩa trang. Người ta đổ vào đó đủ loại phế thải từ khắp nơi trong thành phố. Rồi lớp lớp vỏ xe cũ để lổn ngổn chồng chất lên nhau. Thỉnh thoảng lại có một đám cháy bùng rồi chuyển sang âm ỉ kéo dài cả tuần lễ nếu trời không mưa.

Nhưng đó là chuyện của ngày trước, lúc sắt thép còn bị tạm xếp vào loại vô dụng, chưa có ai cần đến; còn bây giờ, cả nghĩa địa chỉ còn trơ lại những thùng xe rỉ mục và lớp vỏ nứt nẻ, đã biến thành một bãi rác lộ thiên, hôi thúi cả một vùng, nước vàng ứ đọng lênh láng.

Sống cạnh bãi rác là gia đình mẹ Trúc. Gia đình mẹ có 4 người. Mẹ và ba đứa con mặt mũi khác nhau. Mẹ ở đâu đến, không bao giờ mẹ nói ra từ chính miệng mình. Thậm chí những đứa con cũng không biết gốc gác của chúng. Hỏi quê quán, chúng chỉ cười. Hỏi bố là ai, chúng càng cười dữ. Tất cả chỉ đáp trả bằng tiếng cười, ngây thơ như người đến từ hành tinh khác.

Mặc chuyện đời xuôi ngược, bon chen, kẻ lên voi xuống chó, mẹ Trúc và 3 đưá con vẫn sống trong căn chòi chật hẹp, dựa lưng vách tường xí nghiệp cưa xẻ gỗ làm ăn ế ẩm; nơi thường vẳng ra những câu hát cải lương của những công nhân vô công rỗi nghề sống xa gia đình. Một công việc duy nhất lập đi lập lại mỗi lần có xe rác đến: bốn mẹ con túa ra, mỗi người một cào móc, cật lực đào bới của phù vân từ cái đống mà thiên hạ đã thải ra. Sân nhà của mẹ biến thành bãi phân loại, thành kho chứa tự nhiên, chỗ phơi phóng. Nào bao nylon, giấy, vỏ chai, sắt vụn, tất cả những gì còn bán được.

Mẹ Trúc đã có 3 đời chồng. Người chồng đầu tiên là lính khố xanh khố đỏ thời Việt Minh, râu rìa lông ngực, hiền lành đến độ nhu nhược, đẻ cho mẹ một đứa con rồi biến mất. Đứa trẻ nghễnh ngãng, suốt ngày ngồi một chỗ, coi như oan nghiệt kiếp trước. Người chồng thứ hai Philippines làm cho RMK Mỹ. Mẹ giữ chân dọn phòng cho anh ta rồi hai người giắt nhau về chiếc chòi lá, ăn ở “gìa nhân ngãi non vợ chồng”. Bọn trẻ trong xóm rình xem. Chúng đồn đãi mẹ làm đĩ, thậm chí chúng còn ăn cắp được những tranh ảnh tục tĩu trong nhà mẹ, chuyền tay cho nhau xem. Mặc cho thiên hạ bàn tán, mẹ Trúc trả lời bằng cách cho ra đời một thằng con tóc xoăn da chì, giống Philippines như đúc. Thằng bé lúc nào cũng cười, chẳng khác gì kép hát, chỉ không áo mão cân đai. Đánh mấy nó cũng cười. Chửi mẹ nó con đĩ, nó cũng cười. Làm như nó cười để chửi cha thói đạo đức gỉa của thiên hạ.

Đến người chồng thứ ba, mẹ Trúc chỉ đưa về ban đêm. Coi khinh thiên hạ cách mấy rồi cũng có lúc chồn chân đâm kinh sợ chính mình. Một năm sau mẹ cho ra đời thằng Mỹ lai chính hiệu, mắt lồi tóc vàng. Thằng nhỏ càng lớn càng ngổ ngáo, mất dậy. Trên người lúc nào cũng khoác độc chiếc quần cháo lòng. Nóng nảy hay tức giận ai là lại tuột phăng cái quần xuống , trẻ c... vào mặt thiên hạ.

Ba đứa con ba quốc tịch, giống như LHQ. Thằng lớn nhất coi như đã khùng, ăn còn phải đút. Hai đứa sau suốt ngày cấu xé nhau, mẹ Trúc càng cực. Một ngày người ta đem về cho mẹ xác thằng con thứ hai, bị đâm ba phát ngang ngực, vất cạnh bãi rác. Chết mà mặt còn kinh hoàng, mắt trợn trắng như bị chọc tiết. Mẹ ôm cái xác khóc như mưa. Có lẽ chẳng có ai khóc đau khổ như mẹ. Miệng cứ méo xệch ra, vai cứ rung lên bần bật. Nước mắt nước mũi chảy ngược vào trong. Thấy xót qúa!


Năm năm sau mẹ Trúc lại mất đứa con thứ nhất, chết vật giữa đường vì đạn trên trời rơi xuống, chẳng biết ai bắn. Lần này thì mẹ không khóc nữa. Cũng chẳng làm đơn xin tra xét. Mẹ đã hơn 60 tuổi rồi còn gì. Đời cứ quay vòng, lên voi xuống chó, kẻ hôm sau còn ngẩng mặt bây giờ hóa thành qụi lụy; đứa bữa trước còn ngồi trong bóng tối, nay chường mặt ra, to tiếng. Mạnh miệng hay yếu mồm cũng chỉ vì thế và tiền. Ít thế ít tiền làm cho người ta hèn đi. Nhưng tiền nhiều vẫn hèn nếu không có thế. Thằng con lai Mỹ bây giờ đã thành đứa lực lưỡng, chỉ tại cái vô học mà trí không chẳng hơn gì người đàn bà nông dân đái không qua ngọn cỏ. Nó đi theo tiếng gọi của con tim, để mẹ một mình thui thủi với cái chái nhà ngày càng thảm hại. Bi kịch của mẹ Trúc là bi kịch của một cuộc chiến tranh, của những cư dân phải di chuyển lên thành thị khi không hề chuẩn bị cho mình sự thích nghi.

O O O O O O

Ngày mẹ Trúc mất, Phiến cùng đoàn người đi sau xe tang. Mỗi người đeo đuổi một ý nghĩ, không ai nói với ai lời nào. Yên ắng đến nỗi nghe cả tiếng xào xạc của bánh xe nghiến trên đường. Đoàn người ô hợp đi đến nghĩa trang, lặng lẽ, buì ngùi…Phiến tin đó là những tiếc thương thực sự cho một đời người, nhưng hình như tất cả đều muộn màng, đầy ân hận.

Nếu nói hoàn cảnh sống đẻ ra tính cách con người thì mẹ Phiến và vợ Phiến là hai sản phẩm hoàn chỉnh nhất của hai hoàn cảnh khác nhau. Vợ Phiến chắt chiu, tủn mủn; người mẹ vung tay, phung phí. Vợ Phiến nóng nảy, độc mồm; người mẹ trầm tính, không để bụng nham hiểm. Nhưng đố ai biết bà nghĩ gì trong đầu. Có bức bách lắm chỉ thủ thỉ với cháu, nhất định chẳng nói với con. Mẹ chồng nàng dâu cứ thế mà xích mích, hiểu lầm nhau vì những chuyện không đâu.

Chẳng hạn có hôm vợ Phiến kéo Phiến ra sân, nói:

-Tính mẹ không rõ ràng, dạo gần đây mẹ làm nhiều việc mờ ám lắm!

Phiến ngớ người, hỏi:

-Em nói vậy là sao?

Nàng chỉ xuống bếp:

-Buổi sáng em để trăm gram đường ở cái chạn; sáng nay mất. Mẹ không lấy thì ai vào đấy!

Phiến tới cái chạn, moi hết mọi ngõ ngách bên trong:

-Em nhớ lại xem có đổ vào lọ chưa, kẻo nghi bậy bạ, tội đổ vào đầu!

Nàng nguýt:

-Nỡm à! Thế mà cũng nói.

Đó chỉ mới một lần. Nhà còn nhiều vụ việc khác nữa. Giống như có ma.

Lắm lúc Phiến bức bối: “Không khéo có ngày mẹ con giết nhau mất!”. Định bụng vậy nên anh nhất định phải tìm cho ra sự thật, sắp xếp một ý định đê tiện trong đầu.

O O O O O

Người mẹ có thoí quen hay đi dạo vào buổi chiều. Khi đi một mình, lúc giắt theo cháu. Bà đi đâu, làm gì, chẳng rõ. Chỉ biết bà đi về phía cuối xóm, chỗ có ngôi nhà lầu cao sơn màu gạch, kế bên xưởng cưa xẻ gỗ. Phiến để ý, thấy gần như qui luật, lúc nào bà đi xuống dưới đó trở về là trong nhà lại xảy ra một mất mát nho nhỏ, khi thì chén đường, lúc mấy con cá, tô canh, cái muỗng, loon gạo, hũ chao. Chỉ có tiền là không mất…

Một hôm người mẹ có vẻ nôn nao, đi qua đi lại từ trước ra sau; nhìn con bằng đôi mắt lạ lẫm, nửa muốn noí gì, nửa lại thôi. Có lẽ bà biết rõ vị thế của đứa con trong gia đình này, nên chẳng bao giờ bà dám xoè tay xin con đồng bạc.Thỉnh thoảng, Phiến có dấm dúi cho bà, phải nói mãi bà mới nhận, còn mắng: “Tao lấy của mày. Mày lại lấy của vợ mày. Nó khinh cho!”.

Ngày hôm sau, Phiến vẫn đi làm như thường lệ, nhưng tới đầu ngõ lại đi về, men theo một con hẻm khác đến chỗ quán cà phê đối diện với ngôi nhà cao tầng, rình xem người mẹ làm gì ở đó.

Chẳng phải đợi lâu, người mẹ đã từ đầu hẻm đi tới, tay cầm một gói vuông nhỏ; tần ngần một lát rồi bà chui tọt vào cái chòi lá của người mẹ LHQ có 3 đưá con ba quốc tịch, như con chuột chui vào cái lỗ, biến mất. Phiến dợm đứng lên thì ông gìa ngồi cạnh, ngó anh cười:

-Cậu em biết bà gìa đó sao mà nãy giờ nhìn dữ dzậy?Ngày nào bà ấy chẳng đi qua nơi này….

Rồi ông bỏ lững câu nói ở đó, rít một điếu thuốc.

Phiến ngồi lại xuống ghế, hỏi:

-Bà cụ tới đó làm gì vậy bác?

Ông ta giúi cho Phiến một điếu thuốc thơm, bật hộp quyẹt, cười ruồi:

-Trời ơi!Cậu em từ xứ khác đến hả? Bà cụ Liên Hiệp quốc sống trong căn chòi nát đó mà không nhờ bà già này thì đã đứt bóng lâu rồi.

Phiến bỏ điếu thuốc xuống khay, thấy rát bỏng cuống họng.

-Bác nói gì cháu không hiều?

Ông ta vỗ vai Phiến, đôn hậu kiểu nam bộ chính cống:

-Đúng là cậu em ít kháo chuyện đời, tụi tui ngồi thường trực ở đây từ sáng đến tối nên biết mọi sự. Thế này nhé, sáng sáng, bà cụ đến phụ quyét dọn, giặt giũ một lát; buổi chiếu thì mang cơm canh đến. Có lúc bà còn nhờ ông chủ quán giúp mua vài viên thuốc cảm mạo đau nhức nữa kìa. (Mắt ông lão nhìn xa xăm). Nghe nói bà cụ cũng chẳng khá gỉa gì. Con cái cũng nghèo. Nhưng sao gia đình bà tốt qúa. Chẳng bù với thiên hạ bây giờ, chỉ biết đến bản thân.

Phiến quay đi nơi khác, mắt cay xè, bụng râm ran nhưng vẫn chưa tin vào sự thật.

-Thế những người ở trong ngôi nhà lầu kia không giúp được gì bà cụ sao? Có đáng là bao với họ.

Ông gìa bật cười khẩy:

-Giúp gì mà giúp. Có lắm kẻ càng giàu càng keo kiệt. Thậm chí không nhờ lối xóm can thiệp thì người ta đã bít lối đi vào căn chòi rồi. Nhưng rồi rẻo đất đó cũng về tay họ thôi. Nghe nói bà cụ chết hết con cháu, lại lâm bệnh nặng lắm, chắc khó qua khỏi mùa mưa này.

Ông lão còn tâm sự nhiều nữa, còn mời Phiến sáng mai nếu rảnh ghé lại uống cà phê với ông. Ông làm ở nhà đòn nên giờ giấc cũng tự do. Nốc hết ly trà nóng một cách vô ý thức, Phiến chào ông ra về, hai mắt cứ cay cay, hổ thẹn cho thói vô tâm của mình.

Vài hôm sau, bà cụ Liên Hiệp Quốc mất, cũng lặng lẽ như cuộc sống âm thầm khi về gìa của cụ. Sau đám tang, người mẹ xin vợ chồng Phiến về quê. Bà thất thần như đã mất đi một điểm tựa vững chắc mà chỉ có mình Phiến biết. Hai vợ chồng níu giữ cách mấy bà cũng không ở lại. Thắng cháu khóc vạ, bà cung chẳng xiêu lòng, chỉ vỗ đầu nó, nói: “Ráng học giỏi, siêng làm điều hay, giúp đỡ người khác. Mai mốt nội lại lên”.

Lúc xe chạy, người mẹ cứ ngoái lại nhìn đứa con, cho đến lúc bà chỉ còn là một chấm đen nhỏ xíu. Một cái nhìn khó hiểu, cay đắng.

SàiGòn 29 tết Mậu Tí 2008



2 comments:

Cảm ơn ý kiến đóng góp của bạn :)